Phần [04] Giáo Tài A Tỳ Đàm

NAAMAVIITHI LÀ GÌ?
Viithi là quy trình hay hệ thống, vậy tiếng Naamaviithi có nghĩa là quy trình hay hệ thống diễn hoạt của danh pháp tức tâm thức. Trong bốn pháp chân đế chỉ có danh pháp và sắc pháp mới có hệ thống diễn hoạt mà thôi. Ở đây, ta đang nghiên cứu về hệ thống ấy của danh pháp, trích từ bộ Abhidhammatthasangaha trong phần Pavattisangaha.
Khi trình bày về hệ thống diễn hoạt của danh pháp, Ngài Anuruddha nhắm đến hai thời điểm: Pa.tisandhikaala (lúc tái tục) và Pavattikaala (lúc bình nhật) dựa trên ba khía cạnh: Vật, Môn Cảnh.
Toàn bộ Siêu Lý Pháp chỉ nói đến sáu bộ lục (Chakka):

- Vatthuchakka
- Dvaarachakka
- Aaramma.nachakka
- Vi~n~naa.nachakka
- Vithii chakka
- Visayappavattichakka.
Ở Chương ba (Pariccheda III) của bộ A.S (Abhidhammatthasangaha mahaa.tiikaa) đã có trình bày đầy đủ sáu bộ lục này; nhưng qua đến Chương tư, khi giải về hệ thống diễn hoạt của danh pháp, Ngài Anuruddha lập lại một lần nữa ba bộ lục: Vatthuchakka, Dvaarachakka và Aaramma.nachakka. Sở dĩ như vậy là vì Ngài xét thấy tầm quan trọng của chúng đối với vấn đề đang trình bày. Ta nên nhớ rằng sáu thức có được là nhờ sự góp mặt của vật, Môn và cảnh. Một khi thiếu mất ba yếu tố này thì sáu thức không thể hiện khởi.
-ooOoo-
Puc: - Tiếng Visayappavatti vừa nói trên, nghĩa là gì? hãy cho biết con số chính xác về nó trong các câm khách quan (viithicitta) và chủ quan (viithimuttacitta).
Vis: Visayappavatti là diễn biến của cảnh. Visaya ở đây đồng nghĩa với Aaramma.na. Cảnh của tâm chủ quan gồm có ba: Nghiệp cảnh (Kammaaramma.na), Nghiệp tướng cảnh (Kammanimittaaramma.na) và thú tướng cảnh (Gatinimittaaramma.na). Còn cảnh của tâm khách quan thì có sáu hoặc tám.
a) Kể có sáu là: Atimahantaaramma.na (cảnh rất lớn), Mahantaaramma.na (cảnh lớn), Parittaaramma.na (cảnh nhỏ), Atiparittaaramma.na (cảnh rất nhỏ), Vibhuutaaramma.na (cảnh rõ), avibhuutaaramma.na (cảnh không rõ)

b) Kể có tám là: Atimahantaaramma.na, mahantaaramma.na, parittaaramma.na, ativibhuutaaramma.na,vibhuutaaramma.na, avibhuutaaram- ma.na, ativibhuutaaramma.na.
Puc: - Tâm lộ nói theo Môn và Thức như thế nào?
Vis: Tâm lộ nói theo Môn thì có sáu: Lộ nhãn môn (cakkhudvaaraviithi)... (manoviithi).
Tâm lộ nói theo Thức cũng có sáu: Lộ nhãn thức (cakkhuvi~n~naa.naviithi)..., Lộ ý thức (manovi~n~naa.naviithi).
Puc: Trong vi~n~naa.nachakka ấy, manovi~n~naa.na chỉ cho những tâm nào? Visayappattatti(cảnh đồ) của lộ ngũ môn (pa~ncadvaara) gồm có mấy? Kể ra?
Vis: Trong vi~n~naa.nachakka, manovi~n~naa.na (ý thức) chỉ cho 79 tâm (trừ ngũ song thức). Cảnh của lộ ngũ môn có 4: Rất lớn, lớn, nhỏ, và rất nhỏ.
Puc: Hãy giải rõ bốn loại cảnh vừa kể.
Vis: Cảnh rất lớn là cảnh ngũ trong một tâm lộ có đủ 7 thứ tâm. Cảnh lớn là cảnh ngũ trong một tâm lộ có 6 thứ tâm. Cảnh nhỏ là cảnh ngũ môn tâm lộ có 5 thứ tâm. Cảnh rất nhỏ là cảnh ngũ trong một tâm lộ chỉ có tâm hữu phần rúng động (bhavangacalana).
Puc: Hãy cho biết thời gian tồn tại (tuổi thọ) của danh pháp - Sắc pháp và hãy dẫn chứng một câu kinh nào đó về vấn đề này  (khỏi phải dịch).
Vis: Danh pháp chỉ tồn tại trong một sát-na đại rồi diệt mất. Mỗi sát-na đại có 3 sát-na tiểu: Upaadaakkha.na, .Thitikha.na và Bhangakha.na.
Tuổi thọ của sắc pháp lâu hơn danh pháp 17 lần, tức là tồn tại suốt 15 sát-na tiểu. Sau đây là một câu Paali minh dẫn

Uppaada.thitibhangavasena
Kha.nattaya.m ekacittakkha.na.m naama,
Taani pana sattarasa cittakkha.naani.
Ruupadhammaanamaayu
Puc: Sát-na (Kha.na) là gì? Hãy nói rõ hơn nữa về tuổi thọ của danh sắc về sự khác nhau của ba sát-na tiểu.
Vis: Sát-na là một đơn vị thời gian cực ngắn, ngắn đến mức không thể hiểu dùng ví dụ hay hình ảnh. đời sống của một cái tâm là ba sát-na tiểu, thời gian của ba sát-na này bằng nhau. Riêng về sắc pháp thì sát-na trụ là 49 sát-na tiểu ở giữa còn sát-na Sanh và sát-na Diệt chỉ là hai sát-na tiểu thôi.
Puc: Trong thời gian của một cái tróc tay búng ngón tay có bao nhiêu tâm lộ và sắc lộ trôi qua?
Vis: trong mỗi cái tróc tay, danh pháp sinh diệt một ức ko.ti lần. Còn sắc pháp thì sinh diệt năm mươi tám tỷ tám trăm hai mươi triệu (58.820.000.000) lần.
Puc: Tại sao các ngài lại bảo rằng hai sắc biểu tri (vi~n~nattiruupa) có tuổi thọ ngắn hơn 17 sát-na tâm? Cảnh sắc hiển lộ vào sát-na tiểu nào trong một sát-na (đại) của sắc.
Vis: Sở dĩ các ngài bảo rằng 2 sắc biểu tri cùng 4 sắc tướng không tồn tại suốt 17 sát-na tâm là vì 2 sắc biểu tri cùng sanh cùng diệt với tâm (với mỗi sát-na tâm). Gọi theo Dukamaatikaa và mahantaraduka là Cittasahabhuno dhammaa và Cittaanuparivattino dhammaa; còn 4 sắc tướng thì chúng không phải sắc pháp chân đế, chúng chỉ là những biến trạng của sắc Nipphan(sắc pháp chân đế) mà thôi, nên không thể tính tuổi thọ như các sắc khác.
Cảnh sắc hiện rõ qua mắt vào một sát-na tiểu nào đó trong 49 sát- na giữa (.thitipatta) của cảnh sắc ấy.
Puc: Thế nào là hộ kiếp vừa qua (atiitabhavanga) và hộ kiếp rúng động (bhavangacalana)? Tâm hữu phần sanh lên trong lúc cảnh ngũ đã có nhưng chưa đối xúc với ngũ môn, tên gọi là gì? Lúc cảnh ngũ đã đối xúc với ngũ môn rồi, tâm hữu phần ấy mang tên gì?
Vis: Atiitabhavanga là tâm hữu phần trôi qua trong giai đoạn cảnh ngũ đã có nhưng chưa đối xúc với ngũ môn. Bhavangacalana là tâm hữu phần bị dao động (Ở đây không muốn xài tiếng giao động)bởi hấp lực ảnh hưởng của cảnh ngũ mà đã đối xúc với ngũ môn. Tâm hữu phần sinh lên trong giai đoạn cảnh ngũ đã có nhưng chưa đối xúc với ngũ môn, được gọi là atitabhavanga. Khi cảnh ngũ đã đối xúc ngũ môn rồi thì tâm hữu phần ấy được gọi là BhavangacalanaBhavangupaccheda là "cái cắt đứt dòng hữu phần". Sở dĩ gọi tâm hữu phần đó bằng cái tên như vậy là vì nó là tâm hữu phần rúng động (Bhavangacalana) thứ hai, đồng thời cũng là lần cuối cùng trong một tâm lộ.
Puc: Có mấy tâm đóng vai trò vừa qua, rúng động, dứt dòng trong một tâm lộ ngũ môn và ý môn?
Vis: Trong tâm lộ ngũ môn, có 15 tâm đóng vai trò của 3 tâm hữu phần vừa kể, đó là: 2 quan sát xả thọ (Upekkha santir) 8 đại quả và 5 tâm quả sắc giới Trước khi một tâm lộ ý môn diễn tiến, có 15 tâm đóng vai trò atibhavanga: quan sát xả thọ, 8 đại quả và 5 tâm quả sắc giới. Ðối với tâm lộ ý môn không có hữu phần vừa qua thì trước khi bắt đầu tâm lộ sẽ có 19 thứ tâm làm nhiệm vụ dẫn nhập: 2 quan sát xả, 8 đại quả và 9 quả đáo đại
Puc: Có mấy tâm chủ quan và bao nhiêu cảnh của tâm chủ quan (hộ kiếp)?
Vis: Tâm chủ quan gồm có 19 tâm hữu phần; cảnh của nó là một trong 3 cảnh sau đây: Kammaaramma.na, Kammanimittaaramma.na và Gatinimittaaramma.na.
Còn tâm khách quan (tân tâm) là những tâm được kể trong quy trình diễn hoạt (viithicitta). Cảnh của tâm khách quan hay tân tâm chính là sáu cảnh ngoài ra 3 cảnh của tâm chủ quan.
Puc: Ta biết rằng cảnh của tâm lộ ngũ môn gồm cảnh rất lớn, lớn, nhỏ, rất nhỏ?
Vis: Ðể nắm rõ điều đó, ta hãy y cứ vào số lượng hữu phần vừa qua trong mỗi tâm lộ. Tâm lộ nào có một sát-na hữu phần vừa qua, tâm lộ đó được gọi là atimahantaaramma.naviithi. Tâm lộ nào có từ 2 - 3 Hữu Phần vừa qua, ta gọi là lộ tâm cảnh lớn. Tâm lộ nào có từ 4 - 9 Hữu Phần vừa qua, ta gọi đó là lộ tâm cảnh nhỏ. Tâm lộ nào có từ 10 - 16 sát-na Hữu Phần vừa qua, ta gọi đó là lộ tâm cảnh rất nhỏ. thế thôi.
Puc: Có mấy yếu tố làm môi sinh cho tâm thập di và hữu phần khách (agantukabhavanga)?
Vis: Tâm thập di cảnh lớn, cảnh rất lớn muốn khởi lên phải do 3 yếu tố:
a) Ðổng lực trong tâm lộ đó phải là đổng lực dục giới (Kaamajavana).
b) Người dục giới (Kaamapuggala).
c) Tâm lộ đó phải bắt cảnh dục (Kaamaaramma.na). Tuy nhiên, dầu có đủ ba yếu tố này nhưng lại bị trở lực nào đó ngăn ngại thì tâm thập di vẫn không thể khởi lên.
- Nói về tâm hữu phần khách, phải do ba yếu tố sau đây mới có thể xuất hiện:

a) Ðương sự phải là người tục sinh bằng 1 trong 4 tâm đại quả thọ hỷ.
b) Ðổng lực trong tâm lộ phải là tâm sân.
c) Cảnh của tâm lộ phải là cảnh cực tốt nếu đó là cảnh rất lớn hay rất rõ.
Còn nếu chỉ là cảnh lớn hay cảnh rõ thì bất luận là cảnh cực tốt (ti.t.thaaramma.na) hoặc cảnh khá tốt (i.t.thamajjhattaaramma.na) hoặc cảnh bất toại (ani.t.thaaramma.na), cũng đều có thể giúp cho hữu phần khách khởi lên.
Puc: Ngũ môn hội đủ bao nhiêu yếu tố mới có thể bắt được cảnh ngũ. Hãy giải thích từng cảnh một trong bốn cảnh của tâm lộ ngũ môn, đồng thời nói rõ số lượng của ba loại Mandaayukaccakkhapasaada, Amandaayukacakkhapasaada và Majjhimaayukacakkhupasaada trong Atimahantaaramma.natadaalambanavaara cùng Pa.thamamahantaaramma- .naviithi:
Vis: Nhãn môn muốn bắt được cảnh sắc phải có đủ bốn yếu tố:
1) Cakkhupasaada: Thần kinh nhãn tốt.
2) Ruuparamma.na: phải có cảnh sắc cụ thể trước mắt.
3) Aaloka: Phải có đủ ánh sáng.
4) Manasikaara: Phải có sự chú ý.
- Nhĩ môn:
1) Sotapasaada: Thần kinh nhĩ tốt.
2) Saddaaramma.na: Phải có cảnh thinh rõ ràng
3) Aakaasa: không bị vật cách âm.
- Tỷ môn:
1) Ghaanapasaada: Thần kinh Tỷ tốt.
2) Gandhaaramma.na: Phải có cảnh khí
3) Vaayo : Phải có dịch vị
4) Manasikaara: Phải có sự chú ý.
- Thiệt môn:
1) Jivhaapasaada: Thần kinh thiệt tốt.
2) Rasaaramma.na: Phải có cảnh vị
3) Aapo: Sự chuyển động của không khí
4) Manasikaara: Phải có sự chú ý.
- Thân môn:
1) Kaayapasaada: Thần kinh thân tốt.
2) Pho.t.thabbaaramma.na: Phải có cảnh xúc (nóng, lạnh, mềm, cứng, êm, xốc...).
3) Thadda: Ðịa đại có bản tướng rõ rệt
4) Manasikaara: Phải có sự chú ý.
Cảnh ngũ nào đầy đủ bốn yếu tố tương ứng vừa kể trên thì được gọi là cảnh rất lớn. Nếu khiếm khuyết một yếu tố nào trong bốn thì gọi là cảnh lớn. (Khiếm khuyết ở đây chỉ là "yếu", không có nghĩa là không có). Nếu khiếm khuyết nhiều thì gọi là cảnh nhỏ. Nếu quá thiếu tức cả bốn yếu tố đều trong tình trạng quá yếu kém thì gọi là cảnh rất nhỏ.
Trong Atimahantaaramma.natadaalambanavaara có 37 Mandaayukacakkhupasaada, có 11 Amandaayukacakkhupasaada, và có 1 (một) Majjhimaayukacakkhupasaada.
Trong Pa.thamamahantaaramma.navithii có 34 mandaayukacakkhupasaada, 14 amandaayukacakkhupasaada, và một majjhimaayukacakkhupasaada.
Puc: Hãy giải thích thế nào là Mandaayukacakkhupasaada, amandaayukacakkhupasaada và majjhimaayukacakkhupasaada của atimahantaaramma.natadaalambanavaara?
Vis:
a) Mandaayukacakkhupasaada là thần kinh nhãn có tuổi thọ ít hơn cảnh sắc mà đồng sanh với hữu phần vừa qua. Nói có 37 là lấy thần kinh nhãn sinh vào sát-na diệt của tâm hữu phần thứ mười ba tính từ Hữu Phần vừa qua kể ngược lại, cho đến thần kinh nhãn mà sinh vào sát-na diệt của tâm hữu phần nằm kế trước hữu phần vừa qua (tức chỉ có thần kinh nhãn) mà sinh và diệt trước cảnh sắc).
b) Amandaayukacakkhupasaada là thần kinh nhãn có tuổi thọ nhiều hơn cảnh sắc mà đồng sanh với tâm hữu phần vừa qua. Kể có 11 là tính các thần kinh nhãn sinh từ sát-na trụ của tâm hữu phần vừa qua cho đến sát-na diệt của tâm khai ngũ môn (tức chỉ cho những thần kinh nhãn mà sinh và diệt sau cảnh sắc).
c) Majjhimaayukacakkhupasaada là thần kinh nhãn có tuổi thọ bằng với cảnh sắc mà đồng sanh với tâm hữu phần vừa qua. kể có một tức là chỉ cho thần kinh nhãn sinh vào sát-na sanh của chính tâm hữu phần vừa qua ấy (tức Hữu Phần vừa qua đầu tiên). VậyMajjhimaayukacakkhupasaada là thần kinh nhãn mà đồng sanh đồng diệt với cảnh sắc.
Lời giải:
Trong lộ nhãn môn cảnh rất lớn chót na cảnh và lộ Pa.thamamahantaaramma.naviithi, các tiền-sanh-thần kinh nhãn đều làm duyên trợ sanh cho nhãn thức khi chúng đã diễn tiến đến giai đoạn .thitipatta. Các thần kinh nhãn này được gọi là .thitipattaniipa, và có đến 49 cái liên tục Tức là tính từ sát-na Diệt của tâm khai ngũ môn đến sát-na diệt của tâm hữu phần thứ 17 tính ngược lại. Bất cứ thần kinh nhãn nào trong 49 thần kinh nhãn đó cũng đều có thể làm duyên trợ sanh cho nhãn thức.
Các Ngài Giáo Thọ Sư tiền bối (Por) bảo rằng chỉ có Majjhimaayukacakkhupasaada mới làm duyên trợ sanh cho nhãn thức. Nhưng theo các Ngài Giáo Thọ Sư, duyên sinh cho nhãn thức được c?. Hàng học Phật nên ghi nhận cả hai ý kiến này để nghiên cứu.
Riêng về 3 giai đoạn thần kinh nhãn (mandaayukacakkhupasaada, amandaayukacakkhupasaada, majjhimaayukacakkhupasaada) trong lộ pathamamahantaaramma.naviithi cần được hiểu như sau:
- Nói Mandaayukacakkhupasaada trong tâm lộ này có 34 là tính từ sát-na Diệt của tâm hữu phần nằm kế hữu phần vừa qua cho đến sát-na Diệt của tâm hữu phần thứ 12 kể từ hữu phần vừa qua tính ngược lại.
- Nói Amandaayukacakkhupasaada có 14 là tính từ sát-na trụ của tâm Hữu Phần vừa qua cho đến sát-na Diệt của tâm khai ngũ môn.
- Nói Majjhimaayukacakkhupasaada có 1 là chỉ cho thần kinh nhãn mà đồng sanh với cảnh sắc vào sát-na sanh của tâm Hữu Phần vừa qua, và cũng đồng diệt với tâm hữu phần ấy.
Tóm lại, Học Viên Siêu Lý phải luôn nhớ những tâm điểm sau đây:
1 - Ðối với lộ nào cũng vậy, hễ muốn tìm 3 giai đoạn thần kinh nhãn thì phải tìm majjhimaayukacakkhupasaada trước đã.
2 - Lúc nào cũng vậy, majjhimaayukacakkhupasaada vẫn chỉ có một mà thôi, không thể nhiều hơn.
3- Thời điểm duy nhất mà majjhimaayukacakkhupasaada có thể hiện khởi phải là vào sát-na sanh của Hữu Phần vừa qua, không thể ở thời điểm khác được.
4- Cả ba loại .thitipattacakkhupasaada cộng chung lại luôn có số lượng là 49 cái.
Puc: Hãy trình bày quy trình sinh diễn của 4 cảnh (Visayappavatti) theo tâm lộ nhãn môn một cách thứ lớp?
Vis:
1) LỘ NHÃN MÔN CẢNH RẤT LỚN
(CAKKHUDVAA RIKAATIMAHANTAARAMMA.NAVITHII)
Trong trường hợp này, sau khi đã trải qua một tâm hữu phần, cảnh sắc sẽ hiện rõ đối với thần kinh nhãn. Tiếp theo đó, 2 tâm rúng động xuất hiện rồi khai ngũ môn, tiếp thâu, Suy Ðạc, Ðoán định sẽ lần lượt khởi lên và diệt mất từng cái một. Sau đó, một trong 29 đổng lực Dục giới sẽ khởi lên và diệt mất liên tục 7 bận. Sau 7 đổng lực sẽ là 2 tâm na cảnh, sau 2 tâm na cảnh thì hữu phần tiếp tục tái khởi.
Như vậy, trong tâm lộ trên đây có đủ 17 sát-na tâm: 1 vừa qua, 2 rúng động và 14 tâm còn lại. Khi 17 sát-na tâm này diệt mất thì cảnh sắc này được gọi là cảnh rất lớn.
2) LỘ NHÃN MÔN CẢNH LỚN
Ở đây, sau khi trải qua 2 - 3 Hữu Phần vừa qua, cảnh sắc mới hiện rõ cho thần kinh nhãn. Do đó, nó không thể tồn tại cho đến tâm na cảnh. Trong lộ tâm này, sau 7 đổng lực đã đến hữu phần ngay. Cảnh sắc này được gọi là Cảnh lớn.
3) LỘ NHÃN MÔN CẢNH NHỎ
Trong trường hợp này, sau khi đã trải qua từ 4 - 5 -6 - 7 - 8 - 9 sát-na hữu phần, cảnh sắc sẽ hiện rõ cho thần kinh nhãn. Chính vì vậy không đủ thời gian cho 7 đổng lực hiện khởi. Ở tâm lộ này, sau 2 - 3 chập Ðoán định, tâm hữu phần khởi lên lập tức. Cảnh sắc ở đây được gọi là cảnh nhỏ.
4) LỘ NHÃN MÔN CẢNH CỰC NHỎ (cực tiểu)
Trong tâm lộ này, cảnh sắc chỉ hiện rõ đối với thần kinh nhãn sau khi đã trải qua 10 - 16 sát-na hữu phần. Như vậy chúng không thể kéo dài đời sống cho đến tâm Ðoán Ðịnh, chúng chỉ sinh diễn đến chập rúng động thôi. Nói gọn là hoàn toàn không có một tâm khách quan nào cả. Cảnh sắc trong lộ này được gọi là cảnh rất nhỏ.
Puc: Hãy nói rõ cách sinh diễn của lộ nhãn môn cảnh rất lớn (cực đại) chót na cảnh theo dạng thông thường (saama~n~na) .
Vis: Cách sinh diễn của lộ nhãn môn cảnh cực đại chót na cảnh theo dạng thông thường như sau:
Trước hết là Hữu Phần vừa qua, rồi tiếp theo là rúng động, Dứt dòng, Khai ngũ môn, Nhãn thức, Tiếp thâu, Suy Ðạt, Ðoán Ðịnh, 7 đổng lực, 2 na cảnh. Sau đó hữu phần lại tiếp tục tái khởi.
Puc: Trong lộ nhãn môn cảnh cực đại chót na cảnh có mấy thứ tâm khách quan? Kể ra. Các thứ tâm ấy nếu tính theo sát-na thì được mấy? Nếu tính tổng số thì có bao nhiêu?
Vis: Trong lộ nhãn môn cảnh cực đại chót na cảnh có được 7 thứ tâm khách quan Khai ngũ môn, nhãn thức, tiếp thâu, suy đạc, đoán định, đổng lực và na cảnh. Tính trên sát-na thì 7 thức tâm này diễn ra trong 14 sát-na: 1 khai ngũ môn, 1 nhãn thức, 1 tiếp thâu, 1 suy đạc, 1 đoán định, 7 đổng lực và 2 na cảnh. Còn như tính trên tổng số rộng rãi thì 7 thứ tâm ấy chính là 46 tâm Dục giới (trừ tứ song thức).
Puc: Lộ nhãn môn cảnh cực đại chót na cảnh có thể khởi lên ở hạng người nào, cõi nào?
Vis: Lộ này có thể xuất hiện ở tám hạng người và ở 11 cõi Dục giới.
Puc: Lộ nhãn môn cảnh cực đại chót Ðổng lực có mấy trường hợp? Ðồng thời hãy nói rõ vấn đề người cõi của mỗi trường hợp.
Vis: Lộ này có 2 trường hợp: Có hữu phần khách (aagantukabhavanga) và không có hữu phần khách. Lộ không có hữu phần khách thì khởi lên ở 8 hạng người trong (26) cõi ngũ uẩn. Lộ có hữu phần khách thì chỉ hiện khởi ở 4 hạng người (nhị, tam nhân, sơ, nhị quả) trong 7 cõi vui dục giới.
Puc: Hãy ghi rõ số lượng chi pháp trong hai lộ: nhãn môn cảnh cực đại chót na cảnh trong trường hợp đổng lực sân và lộ nhãn môn cảnh cực đại chót Ðổng-lực (sân) .
Vis: Số lượng chi pháp của lộ thứ nhất:
Ti Na Da
P
C
S
.N
V
J J J J J J J
TT
10
1
1
1
1
1
3
6
- Của lộ thứ hai:
Ti Na Da
P
C
S
.N
V
J J J J J J J
BH BH
6
1
1
1
1
1
2
6
Puc: Có bao nhiêu lộ nhãn môn cảnh lớn? Các lộ ấy thuộc chót gì?
Vis: Lộ nhãn môn cảnh lớn có 4 trường hợp: 2 lộ có hữu phần khách và 2 lộ không có hữu phần khách. Cả 4 trường hợp này khi thì có hai hộ kiếp vừa qua, khi thì có 3 hộ kiếp vừa qua, và chúng đều là chót đổng lực.
Puc: Ðối với các lộ có cảnh lớn, có khi nào khởi lên bốn bận hữu phần vừa qua hay không? Hãy giải thích rõ ràng.
Vis: Trường hợp trên cũng có thể xảy ra vì đôi khi đổng lực chỉ khởi lên 6 cái. Như vậy, dầu có khởi lên bốn bận, Hữu Phần vừa qua, vẫn không choán mất thời gian của ai và như vậy lộ tâm vẫn giữ túc số là 17 sát-na. Ðối với lộ tâm này, cảnh ngũ cũng sẽ diệt mất vào sát-na diệt của tâm đổng lực thứ sáu.
Puc: Lộ ngũ môn cảnh cực đại có hữu phần khách với lộ ngũ môn cảnh lớn có hữu phần khách khác nhau không? Khác như thế nào?
Vis: Ðối với lộ ngũ môn cảnh cực đại có hữu phần khách, cảnh ngũ phải cực kỳ tốt (atitthaaramma.na). Nhờ vậy hữu phần khách mới có thể khởi lên.
Còn đối với lộ ngũ môn cảnh lớn có hữu phần khách, thì vấn đề cảnh không quan trọng. Ani.t.thaaramma.na (cảnh xấu), itthamajjhattaaramma.na (cảnh tương đối tốt) hay là cực tốt đều có thể giúp cho hữu phần khách sanh khởi được cả. Vậy sự khác biệt giữa 2 lộ này là trên vấn đề cảnh.
Puc: Lộ ngũ môn cảnh cực đại chót đổng lực không hữu phần khách có khởi lên đối với người cõi dục giới không? Hãy giải thích.
Vis: Lộ này có thể khởi lên nơi người dục giới (Kaamapuggala) qua các hạng người khổ, người lạc vô nhân, nhân loại và những chư thiên tái tục bằng đại quả xả thọ trong trường hợp họ bắt cảnh ngũ cực tốt (ati.t.thaaramma.na) nhưng lại có sự bất bình hay sợ hãi. Lúc đó, nếu có na cảnh thì phải là na cảnh hỷ thọ (somanassatadaalambana). Nhưng vì na cảnh hỷ thọ không thể nối theo sau đổng lực sân được nên ngay kế sau đổng lực sân, tâm chủ quan (muulabhavanga) sẽ sinh khởi nối tiếp, mà không cần tới hộ kiếp khách.
Puc: Lộ ngũ môn cảnh cực đại và lộ ngũ môn cảnh lớn có hữu phần khách có thể khởi lên nơi hạng người nào trong cõi dục giới?
Vis: hai lộ này có thể khởi lên ở năm hạng người Dục giới: Người nhị nhân , tam nhân, bậc Dự Lưu, Nhất lai mà tái tục bằng tâm hỷ thọ và những bậc chứng thiền (jhaanalaabhii) mà đã bị hoại thiền. Với họ thì 2 lộ Hữu Phần khách này mới có thể khởi lên.
Puc: Lộ nhãn môn cảnh nhỏ có mấy trường hợp (pabheda)? Chúng thuộc chót gì? Và có thể khởi lên ở người nào, cõi nào?
Vis: lộ này có 6 trường hợp có 4 Hữu Phần vừa qua, có 5 Hữu Phần vừa qua, có 6 Hữu Phần vừa qua, có 7 Hữu Phần vừa qua, có 8 Hữu Phần vừa qua, có 9 Hữu Phần vừa qua.
Cả 6 trường hợp đều thuộc chót đoán định (vo.t.thapana). Chúng có thể sinh khởi ở 8 hạng người trong cõi ngũ uẩn.
Puc: Lộ ngũ môn cảnh cực tiểu mấy trường hợp? Tại sao loại tâm lộ này thuộc Moghavaara (trước sau gì cũng không có tâm khách quan) nhưng vẫn được xếp vào hệ thống tâm lộ và có tên gọi hẳn hoi (atiparittaaramma.naviithi)?
Vis: Loại tâm lộ này có đến 7 trường hợp: có 10 vừa qua, có 11 vừa qua, có 12 vừa qua, có 13 vừa qua, có 14 vừa qua, có 15 vừa qua, có 16 vừa qua. Sau vừa qua thì sẽ là 2 - 3 sát-na rúng động. Rồi hữu phần cơ bản (Muula Bhavanga) lại sinh khởi.
Sở dĩ vẫn được gọi là một tâm lộ dù thuộc Moghavaara vì lý do là ở đây tâm hữu phần cũng bị dao động khi đối xúc với cảnh ngũ, không như hữu phần cơ bản.
Puc: Hãy trình bày chi tiết về các tâm lộ sau đây thuộc lộ nhãn môn:
1- Lộ nhãn môn cảnh cực đại chót na cảnh. (Tadaalambanava- raatimahantaaramma.naviithi)
2- Lộ nhãn môn cảnh cực đại chót đổng lực có hữu phần khách.
3- Lộ nhãn môn cảnh cực đại chót đổng lực không có hữu phần khách.
4- Lộ Pa.thamamahantaaramma.naviithi có và không có hữu phần khách.
Vis: Lộ nhãn môn cảnh cực đại chót na cảnh diễn hoạt như sau:
Khi cảnh sắc vừa xuất hiện thì tâm hữu phần vừa qua - lấy nghiệp, nghiệp tượng, thú tượng làm cảnh - sẽ khởi lên một sát-na. Khi cảnh sắc đã trực tiếp đối xúc với thần kinh nhãn thì tâm hữu phần vừa qua lại chuyển sang trạng thái dao động, suốt 2 sát-na liên tục. Lúc này chúng có tên gọi là hữu phần rúng động rồi hữu phần dứt dòng. Sau đó các tâm khách quan mới lần lượt hiện khởi theo thứ lớp:
- Tâm khai ngũ môn có nhiệm vụ thẩm sát (vicaaranaa) cảnh mới, xóa cảnh cũ, và cắt ngang dòng hữu phần. Tâm này chỉ khởi lên 1 sát-na thôi.
- Tâm nhãn thức: có nhiệm vụ thuần túy là thấy cảnh. Cũng diệt mất sau 1 sát-na.
- Tâm tiếp thâu: có nhiệm vụ đón bắt lấy cảnh, cũng sống 1 sát-na.
- Tâm suy đạc: có nhiệm vụ trắc đạc đó là cảnh khả ý hay khả ố (itthaaramma.na, ani.t.thaarammana).
- Tâm đoán định : có nhiệm vụ định trị, xác lập thể tính tốt xấu của cảnh.
- Tâm đổng lực (1 trong 29 Kaamajavana): Có nhiệm vụ thưởng thức, tiêu thụ cảnh - tái sinh tái diệt liên tục 7 lần.
- Tâm na cảnh (1 trong 11): Có nhiệm vụ đón nhận cảnh kế thừa từ đổng lực - sau 2 sát-na thì diệt mất.
Cảnh sắc ở đây sẽ cùng diệt với tâm na cảnh thứ hai, vì đã đủ túc số tuổi thọ là 17 sát-na đại.
* Lộ nhãn môn cảnh cực đại chót đổng lực có hữu phần khách diễn biến như sau:
Ðối với người tái tục bằng tâm hỷ thọ, khi thấy cảnh cực tốt mà lại khởi lên tâm trạng bất bình, chán ghét, sợ hãi thì lúc ấy tâm lộ ngũ môn của họ đã diễn ra theo quy trình này:
- Trước hết chính tâm tái tục hỷ thọ của họ đóng vai trò hữu phần vừa qua, hữu phần rúng động, hữu phần dứt dòng - những tâm bắt cảnh Nghiệp, nghiệp tượng , thú tượng trong lúc cận tử của đời trước - sẽ khởi lên rồi diệt.
- Sau đó tâm khai ngũ môn, nhãn thức quả thiện, tiếp thâu quả thiện, suy đạc, hỷ thọ rồi tâm đoán định sẽ lần lượt khởi lên và diệt mất, nối đuôi nhau, tiếp theo sẽ là 7 sát-na đổng lực sân.
- Kế sau giai đoạn đổng lực là tâm quan sát xả thiện hoặc một tâm đại quả xả nào đó khởi lên để đóng vai trò hữu phần khách thế chỗ của na cảnh.
- Sau chập hữu phần khách, hữu phần cơ bản (Muul. Bhanga) sẽ khởi lên nhiều bận, cảnh của nó cũng giống như của hữu phần đầu tiên.
- Và cứ thế, lộ này sanh diệt cả trăm cả ngaan lần, mãi cho đến khi nào cảnh cực tốt ngoại giới không còn nữa thì thôi.
* Lộ nhãn môn cảnh cực đại chót đổng lực không có hữu phần khách:
Ðối với người tái tục bằng tâm xả thọ, khi thấy một cảnh sắc cực tốt mà lại khởi tâm bất bình hay sợ hãi thì tâm lộ lúc đó diễn tiến như sau:
- Trước hết, tâm tái tục xả thọ của họ thì trở thành hữu phần vừa qua, hữu phần rúng động, hữu phần dứt dòng - chúng biết một trong 3 cảnh chủ quan của thời cận tử đời trước - Rồi kế đó sẽ là khai ngũ môn, nhãn thức quả thiện, tiếp thâu thiện quan sát (suy đạc) thiện, đoán định sau đoán định là 7 sát-na đổng lực sân.
- Hết chập đổng lực thì tới tâm tái tục xả thọ của họ. Chúng khởi lên nhiều bận, dĩ nhiên một cách tương ứng. Lộ này cứ vậy mà sanh đi sanh lại cả trăm cả ngaan lần cho đến lúc nào cảnh cực tốt kia còn hiện hữu.
- Ðối với các phạm Thiên Sắc giới khi thấy cảnh sắc cực tốt hay bất toại (ani.t.thaarammana) thì sau một sát-na hữu phần, cảnh sắc sẽ hiện rõ đối với thần kinh nhãn. Sau đó, một đổng lực nào đó ngoài ra sân sẽ khởi lên. Hết chập đổng lực, tâm tái tục sắc giới (có cảnh là Pa~n~nattikammanimittadhammaaramma.na) sẽ khởi lên trong vai trò hữu phần. Tâm lộ này cũng không có hữu phần khách.
* Lộ Pa.thamamahantaaramma.naviithi có hữu phần khách:
Ðối với người tái tục bằng tâm hỷ thọ, khi thấy cảnh tốt (i.t.thaaramma.na) hay bất toại (ani.t.thaaramma.na) mà có tâm bất bình hoặc sợ hãi thì tâm lộ lúc đó diễn tiến như sau:
- Trước hết là 2 - 3 hữu phần vừa qua, giai đoạn này do tâm tái tục thực hiện; tiếp theo là hữu phần rúng động, hữu phần dứt dòng - có cảnh là Kammaaramma.na, kammaanimittaaramma.na và gatinimittaaram- mana (1 trong 3) mà đổng lực cận tử (mara.naasannajavana) đời trước đã bắt sau đó là khai ngũ môn, tiếp thâu, suy đạc, đoán định, đổng lực (7 sát-na).
- Sau chập đổng lực là một tâm hữu phần xả thọ nào đó chẳng hạn như suy đạc xả Thiện hay suy đạc xả bất thiện hoặc đại quả xả khởi lên để làm hữu phần khách là hữu phần căn bản của hỷ thọ - cảnh của nó giống như của tâm hữu phần đầu.
- Hữu phần căn bản này khởi lên nhiều lần - một cách tương ứng - và lộ tâm này lại cứ khởi lên cả trăm cả ngàn bận cho đến khi nào đối tượng ngoại giới kia không còn nữa thì thôi.
* Lộ Pa.thamamahantaaramma.naviithi không có hữu phần khách. Ðối với người tái tục bằng tâm xả thọ, khi gặp cảnh sắc tốt hay bất mỹ bất khả ý mà tâm có sự bất bình, sợ hãi thì dòng tâm thức diễn ra như sau:
- Trước hết tâm tái tục xả thọ sẽ khởi lên trong vai trò hữu phần vừa qua (2 sát-na), hữu phần rúng động, hữu phần dứt dòng - những tâm có cảnh là một trong ba loại sở tri kammaara, kammanimittaara, gatinimittaara mà đổng lực cận tử đời trước đã bắt. Sau đó là khai ngũ môn nhãn thức, tiếp thâu, suy đạc, đoán định, đổng lực sân (7 sát-na liên tục). Kế đó tâm tái tục xả thọ sẽ khởi lên nhiều bận trong vai trò hữu phần. Hết một đoạn dài hữu phần xen kẽ thích hợp, tâm lộ này lại tái khởi rồi diệt mất - cứ thế cả trăm cả ngaan lần cho tới khi nào đối tượng ngoại giới kia không còn nữa thì thôi.
- Hay đối với người tái tục bằng tâm hỷ thọ, khi mắt thấy cảnh tốt hay không tốt cũng có thể diễn ra tâm lộ sau đây: Qua 2 - 3 hữu phần, cảnh sắc hiện rõ nơi thần kinh nhãn ..., và đổng lực ở đây là một tâm nào đó ngoài ra sân, lộ này cũng không có hữu phần khách. Sau chập đổng lực thì tới hữu phần căn bản ngay.
Puc: Trong các tâm lộ ngũ môn có bao nhiêu thứ tâm? Tính như thế nào để biết rằng kể hẹp thì được 75 lộ ngũ môn kể rộng thì có đến 100 lộ ngũ môn?
Vis: Trong tất cả tâm lộ ngũ môn chỉ có 54 tâm dục giới mà thôi. Cách tính hẹp để ra 75 lộ ngũ môn là lấy 1 (lộ) cảnh rất lớn, 2 (lộ) cảnh lớn, 6 (lộ) cảnh nhỏ 6 (lộ) cảnh rất nhỏ cộng với nhau rồi nhân với năm môn thành ra 75 ngay - (1 + 2 + 6 + 6 x 5 = 75). Cách tính rộng để có được 100 lộ ngũ môn là lấy 3 cảnh rất lớn (cực đại), 4 cảnh lớn, 6 cảnh nhỏ 7 cảnh rất nhỏ cộng với nhau rồi nhân với 5 môn - (3 + 4 + 6 7 x 5 = 100)
Puc: Hãy dịch bài kệ sau đây:

Vithicittaani satteva
Cittuppaadaa catudassa
Catupa~n~naasa vitthaara
Pa~ncadvaare yathaaraha.m.
Vis: "Trong mỗi tâm lộ chỉ có 7 thứ tâm khách quan: (1 khán ngũ môn, 1 tiếp thâu, 1 suy đạc, 1 đoán định, 1 đổng lực, 1 na cảnh), nói về sát-na sinh khởi thì trong mỗi tâm lộ có được 14 cái tâm khách quan (hay 14 sát-na tâm khách quan),1 sát-na khán ngũ môn, 1 sát-na môn thức, 1 sát-na tiếp thâu, 1 sát-na suy đạc, 1 sát-na đoán định, 7 sát-na đổng lực và 2 sát-na na cảnh. Nếu nói tổng số lượng thì trong một tâm lộ ngũ môn có tới thứ tâm" (54 tâm dục giới).
Puc: Visayappavatti (cảnh lộ) của lộ ý môn có bao nhiêu? - Hãy kể theo Abhidhammattha sangaha, và A.t.thakathaa, .Tiikaa. Ðồng thời hãy nêu rõ những chi tiết liên hệ.
Vis: Cảnh của lộ ý môn nếu nói theo Abhidhammattha sangaha thì có 2 là: Vibhuutaaramma.na (cảnh rõ) và avibhuutaarammana (cảnh không rõ). Còn như nói theo A.t.thakathaa, và .Tiikaa thì có tới 4: Ativibhuutaaramma.na, vibhuutaaramma.na, avibhuutaaramma.na, atyavibhuutaaramma.na (accavibhuutaaramma.na).
Có tất cả 14 yếu tố trợ sanh các cảnh lộ ý:
1- Di.t.thato: Do đã từng thấy nên trạo lại.
2- Di.t.thasambandhato: do liên tưởng đến điều đã từng thấy - (thấy giống điều đã thấy).
3- Sutato: Do đã từng nghe nên trạo lại.
4- Sutasambandhato: do liên tưởng đến điều đã được nghe (nhận thấy cảnh hiện tại giống cảnh đã nghe).
5- Saddhaaya: Do sức sáng tạo của đức tin .
6- Ruciyaa: Do tác động của sự hưng phấn, hoan hỷ.
7- Aakaaraparivitakkena: Do hồi ức hay sự động não dựa trên kinh nghiệm .
8- Di.t.thinijjhaanakhantiyaa: Do trí tuệ và chủ kiến tác động.
9- Naanaakammabalena: Do nghiệp lực tác động ; như Kammaaramma.na, kammanimittaaramma.na hay gatinimittaaramma.na trong giờ cận tử ...
10- Naanaa-iddhibalena: Do sự chi phối bởi thần lực của tha nhân.
11- Dhaatukkhobhavasena: Do một rối loạn (vipariita) nào đó của cơ thể.
12- Devatopasamhaaravasena: Do sự sai khiến của các thiên nhân.
13- Anulodhavasena: Do tri kiến chính chắn về 4 đế dựa trên Văn, Trí Tư, hay Trí Tu.
14- Pa.tivedhavasena: Do thánh trí tác động.
Sở dĩ cảnh của lộ ý có nhiều như vậy là do ý môn (manodvaara) là hữu phần tâm rất mạnh. Riêng về cảnh ngũ thì chỉ là sắc pháp. Mà theo quy luật, sắc pháp luôn yếu hơn danh pháp, cho nên cảnh danh pháp rất đa dạng, phức tạp.
Puc: Tại sao đối với lộ ngũ môn luôn luôn phải có hữu phần vừa qua, còn đối với lộ ý môn thì điều đó không cố định
Vis: Ðiều đó tập trung ở vấn đề cảnh của hai loại tâm lộ. Lộ ngũ môn chỉ khác hơn là Paccuppannanipphannaruupa (sắc chân đế hay sắc thành tựu hiện tại). Còn đối với lộ ý môn thì nó có thể bắt cả 6 cảnh theo chân đế lẫn chế định trên cả 3 thời và ngoại thời (kaalavimutti). Do đó khi nào bắt 6 cảnh mà không phải là Pac. Nip. ruupa thì lúc ấy lộ ý môn không cần tới hữu phần vừa qua.
Puc: Có bao nhiêu lộ ý môn cảnh rất rõ chót na cảnh? Hãy kể theo A.t.thakathaa và .Tiikaa.
Vis: Theo A.t.thakathaa và .Tiikaa thì có tất cả 6 lộ ý môn cảnh rất rõ chót na cảnh: Lộ có 1 - 2 - 3 - 4 - 5 hữu phần vừa qua và lộ thứ sáu là không có hữu phần vừa qua.
Puc: Có bao nhiêu lộ ý môn cảnh rất rõ chót đổng lực?
Vis: Lộ ý môn cảnh rất rõ chót đổng lực có tất cả 16 trường hợp (tức là có 16 lộ):
- Có từ 1 - 7 hữu phần vừa qua và không có hữu phần khách (tổng cộng 7 lộ)
- Có từ 1 - 7 hữu phần vừa qua có hữu phần khách (7 lộ).
- Không cóhữu phần vừa qua, không có hữu phần khách (1 lộ).
- Không có hữu phần vừa qua, nhưng có hữu phần khách (1 lộ).
Puc: Cảnh của lộ ý môn cảnh cực rõ chót na cảnh có hữu phần vừa qua và của lộ ý môn cảnh cực rõ chót na cảnh không có hữu phần vừa qua là gì?
Vis: Cảnh của lộ ý môn cảnh cực rõ chót na cảnh có hữu phần vừa qua là paccuppannanipphannaniipa. Cảnh của lộ ý môn cảnh cực rõ chót na cảnh không có hữu phần vừa qua là atiitanipphannaniipa, anaagatanipphannaniipa, và cảnh pháp - là danh pháp dục giới, anipphannaruupa trong cả 3 thời.
Puc: Hãy kể rõ cảnh của tám lộ ý môn cảnh cực rõ chót đổng lực không có hữu phần khách và của 8 lộ ý môn cảnh cực rõ chót đổng lực có hữu phần khách.
Vis: Trước hết nói về 7 lộ ý môn cảnh cực rõ chót đổng có hữu phần vừa qua nhưng không có hữu phần khách và 7 lộ ý môn cảnh cực rõ chót đổng lực có hữu phần vừa qua mà cũng có ba hữu phần khách. Cảnh của 14 tâm lộ này khá phức tạp. Vì những lộ có hữu phần khách trên đây chỉ sanh trong 7 cõi vui dục giới, những lộ không có hữu phần khách có thể sanh ở cả 11 cõi dục giới. Cảnh của 14 lộ này (ở cõi Dục) là 6 cảnh thuộc paccupannanipphannaruupa cực tốt. Ngoài ra, 7 lộ ý môn cảnh cực rõ chót đổng lực có hữu phần vừa qua nhưng không có hữu phần khách có thể sanh ở 15 cõi sắc giới (trừ cõi Vô Tưởng); Trong trường hợp đó cảnh của chúng là cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh pháp mà thuộc paccuppannanipphannaruupa cực tốt hoặc không tốt (ni.t.thaaramma.na) cũng được.
Tiếp theo đây là nói về lộ ý môn cảnh cực rõ chót đổng lực không có hữu phần vừa qua mà cũng không có cả hữu phần khách. Nếu sanh khởi ở 11 cõi Dục giới thì cảnh của lộ này là 6 cảnh thuộc atiitanipphannaruupa, anaagatanipphannaruupa và cảnh pháp là danh pháp (citta  cetasika); anipphannaruupa cực tốt trong ba thời (tekaalika), Níp-bàn và chế định (cảnh ngoại thời - Kaalavimutti). Nếu sanh ở 19 cõi Phạm thiên hữu tâm (15 +14) thì cảnh của lộ tâm này là cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh pháp (gồm atiitaanipphannaruupa anaagatanipphannaruupa và danh pháp - tâm, sở hữu), anipphannaruupa cực tốt, chế định (đối với cõi vô sắc thì trừ ra những cảnh thuộc về Sắc Pháp).
Sau cùng là nói về lộ ý môn cảnh rõ chót đổng lực không có hữu phần vừa qua nhưng có hữu phần khách, lộ này chỉ sanh khởi ở 7 cõi vui dục giới. 6 cảnh của nó là atiitanipphannaruupa, anaagatanipphannaruupa, cảnh pháp (chỉ cho lokiyacittacetasika), anipphannaruupa cực tốt - trong cả 3 thời, cùng chế định .
Puc: Ở người nào, cõi nào các tâm lộ sau đây có thể hiện khởi:
- Lộ ý môn cảnh cực rõ chót đổng lực không có hữu phần khách.
- Lộ ý môn cảnh cực rõ chót đổng lực có hữu phần khách.
- Lộ ý môn cảnh cực rõ chót na cảnh?
Vis:
- Lộ ý môn cảnh cực rõ chót na cảnh có thể hiện khởi nơi 8 hạng người ở 11 cõi Dục giới.
- Lộ ý môn cảnh cực rõ chót đổng lực không có hữu phần khách hiện khởi được ở 8 hạng người trong cõi ngũ uẩn và tứ uẩn.
- Lộ ý môn cảnh cực rõ chót đổng lực có hữu phần khách có thể hiện khởi ở 4 người trong 7 thiện thú Dục Giới (Là trừ người khổ, người lạc vô nhân, bậc A na Hàm, A La Hán).
Puc: Có mấy lộ ý môn cảnh rõ? Cảnh của lộ ý môn cảnh rõ không có hữu phần khách và có hữu phần khách là gì?
Vis: Có tất cả 16 lộ ý môn cảnh rõ:
- Lộ ý môn cảnh rõ có từ 1 đến 7 hữu phần vừa qua và không có hữu phần khách (7 lộ).
- Lộ ý môn cảnh rõ có từ 1 đến 7 hữu phần vừa qua và có hữu phần khách (7 lộ).
- Lộ ý môn cảnh rõ không cóhữu phần vừa qua, không có hữu phần khách (1 lộ).
- Lộ ý môn cảnh rõ không có hữu phần vừa qua, nhưng có hữu phần khách (1 lộ).
Tổng cộng: 16 lộ.
* Cảnh của lộ ý môn cảnh rõ có hữu phần vừa qua và không có hữu phần khách và có hữu phần khách là 6 cảnh trong dạng paccuppannanipphannaruupa.
* Cảnh của lộ ý môn cảnh rõ không có hữu phần vừa qua mà cũng không có hữu phần khách là atiitanipphannaruupa, anaagatanipphan- naruupa, tất cả tâm và sở hữu tâm, anipphannaruupa,trong 3 thời, Níp-bàn, chế định.
* Cảnh của lộ ý môn cảnh rõ không có hữu phần vừa qua nhưng có hữu phần khách là 6 cảnh trong dạng atiitanipphannaruupa, anaagatanipphannaruupa, tất cả tâm và sở hữu hiệp thế,anipphannaruupa trong 3 thời và chế định.
Puc: - Lộ ý môn cảnh rõ có hữu phần khách và không hữu phần khách có thể hiện khởi ở người nào cõi nào?
Vis: - Lộ ý môn cảnh rõ có từ 1 - 7 hữu phần vừa qua mà không có hữu phần khách sanh được ở 8 người trong cõi ngũ uẩn.
- Lộ ý môn cảnh rõ không có hữu phần vừa qua, cũng không có hữu phần khách, có thể sanh ở 8 hạng người trong cõi tứ uẩn và ngũ uẩn.
- Lộ ý môn cảnh rõ chót có từ 1 - 7 hữu phần vừa qua và cũng có hữu phần khách, có thể hiện khởi ở 4 hạng người trong 7 cõi vui Dục giới (trừ người khổ, người lạc vô nhân, bậc Na Hàm và La Hán).
Puc: Có mấy tâm lộ ý môn cảnh không rõ và cực kỳ không rõ? Chúng hiện khởi vào thời điểm (kha.na) nào? Người nào cõi nào có thể chứng?
Vis: lộ ý môn cảnh không rõ có 2 trường hợp; được 2 bận khai ý môn và được ba bận khai ý môn. Còn lộ ý môn cảnh cực kỳ mơ hồ thì chỉ có một trường hợp là được 3 hữu phần rúng động.
- Lộ ý môn cảnh không rõ chỉ hiện khởi vào những khi người ta nhớ lại 6 cảnh một cách mơ hồ, hời hợt - Cảnh này có thể là chân đế hay chế định - mà tâm tư vẫn thờ ơ hững hờ hoặc trong lúc người ta nằm mộng, những giấc mơ chợt đến chợt đi quá ngắn ngủi, trong những giấc ngủ, chập chờn.
Còn lộ ý môn cảnh cực kỳ mơ hồ thì cũng thường khởi lên trong giấc ngủ và cảnh ở đây chỉ là một nét gợn (nimitta) trong dòng ý thức đang tuôn chảy, nó chỉ vừa đủ để khiến cho hữu phần rúng động khởi lên. Cho nên đương sự đang nằm ngủ gần như không biết gì về sự dao động đó của tư tưởng và cái biết lúc đó tựa hồ như gắn liền với giấc ngủ vậy.
Nếu hai lộ vừa kể trên diễn ra trong giấc chiêm bao thì chúng chỉ có thể hiện khởi ở 7 hạng người (trừ La Hán) trong cõi người và ba đoạ xứ (trừ địa ngục). Còn như cũng hai lộ trên nhưng không phải xảy ra trong giấc ngủ thì có thể hiện khởi ở 8 hạng người trong cõi tứ uẩn, ngũ uẩn.
Puc: Các ngài bảo rằng lộ ý môn có đổng lực Dục giới (kaamajavanamanodvaaraviithi) có 2 loại là Suddhammanodvaaraviithi và tadanuvattikamanodvaaraviithi. Hãy giải thích 2 loại tâm lộ đó. Và hãy cho biết có tất cả mấy lộ thuộc Suddhamanodvaaraviithi, không cần kể tên từng lộ?
Vis: Suddhamanodvaaraviithi là những tâm lộ ý môn thuần túy, độc lập, cá sinh có 2 trường hợp bắt cảnh của loại tâm lộ này. Trường hợp thứ nhất chuyên bắt cảnh paccupannanipphannaruupa. Trường hợp thứ hai là biết cảnh atiitanipphannaruupa,anaagatanipphannaruupa, tất cả tâm cùng sở hữu, anipphannaruupa trong 3 thời Níp-bàn và chế định.
Còn tadanuvattikamanodvaaraviithi là loại tâm lộ ý môn bắt nguồn từ tâm lộ ngũ môn, chuyển tiếp từ tâm lộ ngũ môn.
Có tất cả 41 tâm lộ thuộc về Suddhamanodvaaraviithi: 22 lộ cảnh cực rõ, 16 lộ cảnh rõ, 2 lộ cảnh không rõ, một lộ cảnh cực kỳ mơ hồ.
Puc: Có bao nhiêu tâm lộ Tadanuvattikamanodvaaraviithi bắt nguồn từ lộ nhãn môn, lộ nhĩ môn? Hãy trình bày thứ lớp cách sinh diễn của những các tâm lộ đó.
Vis: Tâm lộ Tadanuvatti kamanodvaaraviithi bắt nguồn từ lộ nhãn thức có được 4 lộ:

1- Atiitaggaha.naviithi
2- Samuuhaggaha.naviithi
3- Atthaggaha.naviithi
4- Naamaggaha.naviithi
Tadanuvatti kamanodvaaraviithi bắt nguồn từ nhĩ thức có được 4 hoặc 3 lộ. Kể có 4 thì là: atiitaggaha.naviithi, samuuhaggaha.naviithi, naamaggaha.naviithi, atthaggaha.naviithi . Kể có 3 thì (là) trừ ra samuuhag- gaha.naviithi.
Sau đây là cách sinh diễn của bốn tâm lộ nhãn thức:
I) Atiitaggaha.naviithi: Sau khi tâm hữu phần kế tục lộ nhãn thức diệt xong, cảnh sắc quá khứ (tức cảnh sắc trong lộ nhãn môn) sẽ khởi lên qua ý thức và trong giai đoạn đó sẽ có hữu phần rúng động, dứt dòng. Tiếp theo là khai ý môn, 7 sát-na đổng lực, 2 na cảnh lần lượt khởi lên để bắt cảnh quá khứ cực rõ . Còn nếu đó chỉ là cảnh rõ thì không có 2 na cảnh, Sau 7 đổng lực thì hữu phần lại khởi lên.
II) Samuuhaggaha.naviithi: Kế sau lộ Atiitaggaha.nasẽ là lộ Samuu-haggaha.na, lộ này sanh lên để thu vén cảnh sắc quá khứ diễn trình của tâm lộ này như sau : Rúng động, dứt dòng, khai ý, 7 đổng lực, 2 na cảnh rồi trở lại hữu phần bình thường nếu đó là cảnh cực rõ. Còn như chỉ là cảnh rõ thì không có 2 Na cảnh.
III) Atthaggaha.naviithi: Sau khi Samuuhagga-ha.naviithi đã làm xong việc thu vén cảnh sắc quá khứ một cách kỹ lưỡng thì lộ atthaggahana sẽ tiếp tục (nối tiếp) theo đó mà khởi lên để ghi nhận khía cạnh ngoại hình (sa.n.thaana) của cảnh sắc theo atthapa~n~natti diễn hình của tâm lộ này cũng giống như ở lộ Samuuhaggaha.na về mọi chi tiết, chỉ có điều là không có na cảnh, vì tâm lộ này bắt cảnh atthapa~n~natti (cụ thể hay điễn hình chế định).
IV) Naamaggaha.naviithi: Kế sau lộ atthaggaha.na thì tới naamagga-ha.naviithi. Tâm lộ này khởi lên với nhiệm vụ là định danh cảnh sắc theo từ ngữ tục đế tức là nó có phận sự đặt cho cảnh sắc kia một tên gọi thích ứng với ngoại hình của nó. Về các chi tiết trong diễn trình thì ở tâm lộ này hoàn toàn giống như lộ atthaggaha.na, vì nó cũng bắt cảnh chế định.
Bây giờ nói qua 4 tâm lộ Tadanuvattikamanodvaaraviithi bắt nguồn từ lộ nhĩ thức:
1) ATTHAGGAHA.NAVITHII:
Sau khi tâm hữu phần kế tục lộ nhĩ thức đã diệt thì âm hưởng của cảnh thinh quá khứ nọ tiếp tục xâm nhập vào dòng ý thức, ở đây phải nói rõ là chỉ những tiếng động có âm hưởng "di truyền" như tiếng tụng kinh, tiếng động cơ... lúc đó tâm lộ atii taggaha.naviithi sẽ khởi lên và nó bắt đầu rúng động, dứt dòng rồi tiếp theo sẽ là khai ý môn, 7 đổng lực, 2 na cảnh và hữu phần lại tái hiện, nếu đó là cảnh cực rõ; như chỉ là cảnh rõ thì sau 7 đổng lực, hữu phần sẽ tái khởi ngay.
2) SAMUUHAGGAHA.NAVITHII :
Kế sau atiitaggaha.navithii luôn là samuuhaggaha.naviithi, tâm lộ này có nhiệm vụ là thu vén âm hưởng của cảnh thinh. Diễn trình của nó như sau: Rúng động, dứt dòng, khai ý (môn), 7 đổng lực - nếu là cảnh cực rõ thì có Na cảnh, nếu chỉ là cảnh rõ thì không có.
3) NAAMAGGAHA.NAVITHII :
Sau khi lộ Samuuhaggaha.na đã làm xong nhiệm vụ thu vén cảnh thinh quá khứ tiếp theo đó, lộ Naamaggaha.naviithi sẽ khởi lên để định danh cảnh thinh ấy. Các chi tiết trong diễn trình này đều giống như ở Samuuhaggaha.naviithi, chỉ khác ở điểm không có na cảnh vì nó bắt cảnh chế định (Naapa~n~natti).
4) ATTHAGGAHA.NAVITHII:
Kế sau lộ Naamaggaha.na sẽ là atthaggaha.naviithi. Tâm lộ này có nhiệm vụ nhận diện cảnh thinh theo atthapa~n~natti. Diễn trình của tâm lộ này hoàn toàn giống như ở lộ trước, vì nó cũng biết cảnh chế định.
Còn nói các tâm lộ thuộc Tadanuvattikamanodvaaraviithi bắt nguồn từ lộ nhĩ môn mà chỉ có 3 trường hợp, trừ Samuuhaggaha.naviithi, đó là đối với những cảnh thinh quá ư ngắn gọn, khi tiếp nhận chúng các tâm lộ diễn ra đơn giản hơn nên Samuuhaggaha.naviithi không có lý do để khởi lên.
Puc: hãy kể rõ những tâm lộ diễn ra trong lúc:
- Thấy người khác vẫy tay ta biết họ gọi mình.
- Nghe người khác kêu lên, ta biết họ gọi mình.
Vis:
* Trong trường hợp I, có 6 tâm lộ sau đây hiện khởi :
1) Cakkhudvaaraviithi khởi lên để thấy được cái vẫy tay, chỉ thấy để thấy thôi, chưa có vấn đề "quan niệm" ở đây.
2) Atiitaggaha.naviithi khởi lên kế tục lộ nhãn môn để nắm bắt cảnh sắc quá khứ. Ðiều nên nhớ là cả hai lộ: nhãn môn và atiitagga-ha.na cứ nối đuôi nhau luân diễn hàng mấy mươi bận trong giai đoạn này.
3) Samuuhaggaha.naviithi sanh khởi tiếp theo sau lộ atii taggaha-.naviithi để thu vén cảnh sắc quá khứ kế thừa từ 2 tâm lộ trước. Tâm lộ này cũng được lập đi lập lại hàng chục lần, ít nhiều tùy theo cảnh lớn hoặc nhỏ.
4) Atthaggaha.naviithi luôn nối dấu lộ Samuuhaggaha.naviithi mà khởi lên, để biết rằng đối tượng kia đang vẫy tay.
5) Kaayavi~n~nattigaha.naviithi: Khởi lên nối theo sau lộ atthaggaha-.naviithi để biết mục đích của cái vẫy tay, ý nghĩa của cái vẫy tay: Gọi đến.
6) Adhippaayaggaha.naviithi sanh khởi kế tục tâm lộ Kaayavi~n~nat-tigaha.nađể giao cảm ý muốn của đối tượng (nhân vật đối tượng). Trong 6 tâm lộ vừa kể, chỉ ba tâm lộ đầu là có thể có Na cảnh, còn ba tâm lộ sau thì không thể có Na cảnh.
* Trong trường hợp II, có 7 tâm lộ diễn tiến:
1) Sotaadvaaraviithi: chỉ để nghe một cách đơn thuần, chưa có ý niệm gì về naamapa~n~natti và atthapa~n~natti.
2) Atiitaggaha.naviithi : Kế tục lộ trước để nắm bắt cảnh thinh quá khứ. Cả hai tâm lộ vừa kể đều phải tiếp nối nhau lập đi lập lại hàng nhiều chục bận.
3) Samuuhaggaha.naviithi: kế tục lộ trước để thu vén âm hưởng " di truyền" kế thừa từ hai lộ trước. Tâm lộ này cũng sinh diệt tái hiện hàng chục bận, ít nhiều tùy theo cảnh thinh có âm hưởng "di truyền" dài ngắn.
4) Naamaggaha.naviithi: Kế tục lộ trước sanh lên để định danh cảnh thinh theo Naamapa~n~natti.
5) Atthaggaha.naviithi : khởi lên sau Naamaggaha.naviithi để quan niệm cảnh thinh theo khía cạnh atthapa~n~natti.
6) Vaciivi~n~nattigaha.naviithi : Kế tục lộ trước khởi lên để ý thức được khía cạnh phương tiện thông cảm của tiếng gọi
7) Adhippaayaggaha.naviithi : Nối đuôi lộ trước khởi lên để tiếp nhận ý muốn của nhân vật đối tượng, ý nghĩa hay mục đích của tiếng gọi.
Trong 7 tâm lộ này, 3 cái trước có thể có Na cảnh, 4 cái còn lại không thể có Na cảnh.
Puc: Trong các quy trình tiếp nhận cảnh thinh có phải lúc nào Samuuhaggaha.na viithi cũng có mặt chăng? Tại sao?
Vis: Vấn đề này thì bất định, nghĩa là khi nào cảnh thinh chỉ là một tiếng ngắn gọn thì để tiếp nhận nó không cần phải có đến tâm lộ Samuuhaggaha.na. Chỉ khi nào cảnh thinh có từ 2 âm trở lên mới phải nhờ đến nó để thu vén lại và hễ càng nhiều âm bao nhiêu thì cũng có bấy nhiêu tâm lộ này khởi lên, cho nên đối với những cảnh thinh có quá nhiều âm thì cũng có rất nhiều samuuhaggaha.navithii , thậm chí không thể đếm xiết.
Puc: Tâm lộ chiêm bao (supinaviithi) có thể khởi lên đối với người nào (trong thời điểm nào)? Có mấy trường hợp tâm lộ chiêm bao? Nói theo 12 hạng người được bao nhiêu người? Và bao nhiêu cõi?
Vis: Ðối với người đang tỉnh táo bình thường, tâm lộ chiêm bao không thể khởi lên, điều đó dĩ nhiên, nhưng đối với người đang ngủ thật ngon giấc cũng vậy. Nghĩa là tâm lộ chiêm bao chỉ có thể khởi lên trong thời điểm đứt quãng, gián đoạn của giấc ngủ mà thôi. Tâm lộ chiêm bao có tất cả 12 trường hợp (tức cũng là 12 lộ):
1) Lộ chiêm bao cảnh cực rõ chót na cảnh không có hữu phần vừa qua (1 lộ).
2) Lộ chiêm bao cảnh cực rõ chót đổng lực không có hữu phần vừa qua và không có hữu phần khách (1 lộ).
3) Lộ chiêm bao cảnh cực rõ chót đổng lực không có hữu phần vừa qua nhưng có hữu phần khách (1 lộ).
4) Lộ chiêm bao cảnh rõ chót đổng lực không có hữu phần vừa qua cũng không có hữu phần khách (1 lộ).
5) Lộ chiêm bao cảnh rõ chót đổng lực không có hữu phần vừa qua nhưng có hữu phần khách (1 lộ).
6) Lộ chiêm bao cảnh không rõ chót đoán định (1 lộ).
7) Lộ chiêm bao cảnh rất mơ hồ (1 lộ).
8) Lộ chiêm bao cảnh rất rõ chót na cảnh hữu phần vừa qua (1 lộ).
9) Lộ chiêm bao cảnh rất rõ có hữu phần vừa qua nhưng không có hữu phần khách (1 lộ).
10) Lộ chiêm bao cảnh rất rõ chót đổng lực có cả hữu phần vừa qua hữu phần khách (1 lộ).
11) Lộ chiêm bao cảnh rõ có hữu phần vừa qua nhưng không có hữu phần khách (1 lộ).
12) Lộ chiêm bao cảnh rõ có cả hữu phần vừa qua lẫn hữu phần khách (1 lộ).
Tất cả tâm lộ chiêm bao này chỉ có thể khởi lên ở 4 phàm nhân + 3 hữu phần ở cõi người, 3 đọa xứ (trừ địa ngục).
Thích giảng:
Chúng sanh ở cõi địa ngục không nằm mơ được là vì dưới đó lửa đốt thiêu suốt đêm ngày. Còn đối với chư thiên thì không thể nằm mơ được bởi vì sắc nghiệp (Kammajaruupa) của họ quá vi tế, vả lại, trên thiên giới không bao giờ có được một trong 4 nhân trợ chiêm bao: Cittaavara.na, devasa.mhara.na, do nghiệp tác động và dị ứng vật thực.
Ðiều nên nhớ là những tâm lộ chiêm bao có hữu phần vừa qua chỉ khởi lên lúc có cảnh là Paccuppannanipphannaruupa. Như trường hợp đang ngủ mà có người đến lay gọi, nếu lúc đó chỉ có lộ nhĩ môn, thân môn và atii taggaha.naviithi khởi lên mà không có các tâm lộ khác, thì do vậy chúng mới trở thành lộ chiêm bao và vì phải nhờ đến tiếng gọi và sự xúc chạm, toàn là Paccuppannanipphannaruupa, nên các tâm lộ này mới có hữu phần vừa qua.

-ooOoo-
Puc: Hãy dịch 2 bài kệ sau đây:

1) Vithiicittaani tii.neva
Cittuppaadaa dasseritaa
Vitthaarena panettheka
Cattaaliisa vibhaavaye

2) Sadda.m pa.thamacittena
Tiita.m dutiyacetasaa
Naana.m tatiyacittena
Attha.m catutthacetasaa
.
Vis: Lời dịch của hai bài kệ trên là:
1) Cảnh trong lộ ngũ môn nói theo tâm khách quan (viithicitta) thì có 3 là khai ý môn, đổng lực, na cảnh, nói theo sát-na tâm thì có 10: 1 khai ý, 7 đổng lực, 2 na cảnh; còn nếu tính rộng thì có đến 41 là 41 tâm dục giới (trừ ngũ song thức, 3 ý giới).
2) Trong một quá trình tiếp nhận cảnh thinh đầy đủ, tâm lộ đầu tiên là lộ nhĩ môn luôn khởi lên để biết cảnh thinh hiện tại. Tâm lộ thứ hai kế tục theo đó, là atiitaggaha.naviithi khởi lên để nắm bắt cảnh thinh quá khứ. Tâm lộ thứ ba sẽ là naamaggaha.naviithi, khởi lên để định danh cảnh thinh hay nói cách khác là để biết cảnh thinh qua phương diện naamapa~n~natti. Tâm lộ thứ tư là atthaggaha.naviithi, có mặt để biết cảnh thinh qua khía cạnh atthapa~n~natti.
Puc: Theo quy luật, cảnh ngũ sau khi hiện rõ qua ngũ môn thì cũng lập tức xuất hiện qua ý môn ngay giây phút đó. Giống như khi một con chim, bay đến đậu trên một nhánh cây thì bóng của nó cũng in xuống đất ngay khoảnh khắc đó vậy. Thế nhưng tại sao lộ ngũ môn và lộ ý môn tuỳ thuộc (Tadanuvattikamanodvaaraviithi) không cùng lúc khởi lên, và tại sao lộ ý môn tùy thuộc lại không thể sanh trước lộ ngũ môn?
Vis: Cũng theo quy luật, không bao giờ có việc hai sát-na tâm cùng khởi lên trong một thời gian, nghĩa là sát-na này diệt rồi sát-na kia mới sanh lên. Do đó, lộ ngũ môn và ý môn tùy thuộc không thể khởi lên cùng lúc.
Còn sở dĩ tâm lộ ý môn tùy thuộc không bao giờ sanh trước tâm lộ ngũ môn là vì trên nguyên tắc nhân luôn có trước quả chớ không bao giờ có việc ngược lại. Cảnh ngũ trong lộ ngũ môn là nhân, trong lộ ý môn tùy thuộc là quả. Ðành rằng cảnh ngũ cùng lúc xuất hiện trong cả ngũ môn lẫn ý môn; như ánh sáng và ngọn lửa vậy, ánh sáng không thể có trước ngọn lửa được dù trên hình thức chúng như thế một lượt. Ở đây, ngọn lửa là Năng (nhân) mà ánh sáng là Sở (quả). Ví dụ này như thế nào thì trường hợp trên cũng như vậy, tuy cảnh ngũ cùng lúc hiện khởi qua cả ngũ môn lẫn ý môn nhưng ta phải hiểu rằng cảnh ngũ trong ngũ môn là Nhân, còn cảnh ngũ trong ý môn là quả, nên dĩ nhiên nhân phải đặt trước. Nghĩa là lộ ngũ môn phải có trước.
Puc: Các ngài bảo rằng khi nào cảnh sắc hiển hiện qua mắt thì lúc đó tâm hữu phần sẽ bị dao động tức khắc. Nhưng ta thấy rõ ràng là mắt và trái tim (chỗ nương của tâm hữu phần) không nằm gần nhau, chẳng hạn như đối với Thiên tử Raahu thii từ mắt xuống tới tim có tới hàng trăm hàng ngàn cây số, thế thì làm sao để hiểu được sự đồng bộ ấy?
Vis: Quả thật vậy, khi nào cảnh sắc hiện qua nhãn vật thì khi ấy tâm hữu phần sẽ bị dao động, ta gọi tâm hữu phần ấy là Bhavangacalana, như ngài Buddhaghosa đã viết trong Atthasaalinii:
Ekeka.m aaramma.na.m dviisu dvaaresu aapaatamaagacchati, ruupaaramma.na.m hi cakkhupasaada.m gha.t.tetvaa ta.m kha.na~n~neva manodvaare aapaatamaagacchati, bhavangacalanassa paccayo hotiiti attho!
Ta có thể nói rằng tuy về vị trí vật thể thì mắt và tim nằm xa nhau nhưng trên quy tắc sinh hoạt của thực thể pháp (sabhaava) thì ngũ vật và ý vật luôn tương quan nhau một cách mật thiết. Chính vì vậy, việc tâm hữu phần bị dao động cùng lúc với sự tiếp nhận cảnh sắc của nhãn vật trở thành một vấn đề tất nhiên Ta có thể hiểu điều này qua ví dụ 2 cục đường mà các Ngài chú giải Sư đã dùng. Có 2 cục đường nằm trên bàn, một cục bị ruồi bu còn một cục thì không. Khi Ta lấy ngón tay chạm vào cục đường không bị ruồi bu thì con ruồi bên cục đường kia sẽ hoảng lên mà bay đi, dù hai cục đường đó nằm riêng nhau và đây là câu Paali minh dẫn, trích từ Saccasankhepa-atthakathaa:
Gha.t.tite a~n~navatthumhi
A~n~nanissita.m kampana.m
Ekaabandhena hotiiti
Sakkharopamaya vade.
Puc: Muốn biết rằng trong một môi trường hưởng thụ ngũ dục, dĩ nhiên là muốn đề cập đến một chỗ đầy đủ mọi tiện nghi thích ứng cảnh trần nào sẽ hấp dẫn người ta trước hết và diễn biến tâm lộ của họ như thế nào?
Vis: Ðiều đó cũng bất định, tùy theo sở thích của mỗi cá nhân. Nếu đương sự là một người có thị hiếu về cảnh sắc thì chính nó sẽ réo gọi sự chú ý của họ trước, còn như người ấy nặng về âm thanh thì cảnh thinh sẽ lôi cuốn anh ta trước tiên, cứ vậy mà hiểu. Và dĩ nhiên, để ghi nhận cảnh trần nổi bật đó, một tâm lộ ngũ môn tương ứng sẽ hiện khởi. Rồi tiếp theo đó các trần cảnh khác có liên hệ mới tiếp nối có mặt và mỗi cảnh như vậy cũng đều được một tâm lộ tương ứng ghi nhận. Nếu như đương sự là một người không có sở thích gì nổi bật thì một trần cảnh nào đó nổi bật nhất tại hiện trường sẽ mời mọc anh ta, chẳng hạn như một tiếng động quá lớn, một cái hoa quá sặc sở hay một cái mùi nồng nặc...
Trước khi nói qua diễn biến của các tâm lộ trong thời điểm này, ta phải nhớ rằng mỗi tâm chỉ có thể biết được một cảnh, làm được một việc, không thể nhiều hơn. Tức là chỉ với một tâm lộ nhãn môn thì không thể nào ghi nhận trọn vẹn những chi tiết trên một bức ảnh trước mặt được, việc đó đòi hỏi phải có nhiều tâm lộ nhãn môn kế tục nhau gánh vác. Thấy được tổng quát phải là một lộ, để ghi nhận từng chi tiết mắt, tai, mũi, miệng... thì đều phải do nhiều tâm lộ khác nhau, dù cũng chỉ là những tâm lộ nhãn môn như nhau. Nhưng vì tốc độ diễn biến, sinh hoạt của tâm thức quá mau lẹ nên người ta cứ ngỡ là chỉ có một cái nhìn đơn giản là đã có thể nắm bắt toàn diện một hình ảnh trước mặt.
Như vậy, nói gọn lại thì vấn đề diễn biến tâm lộ của mỗi người trước một môi trường ngũ trần luôn tùy thuộc vào sở thích, thị hiếu cá nhân hay vì sức tác động của chúng sanh mạnh yếu. Như Ngài Buddhaghosa đã ghi trong Atthasaalinii:
Katha.m pana cittassa aaramma.nato sankanto hontiiti? Dviihaakaarehi ajjhaasayato vaa vissayaa adhimattato vaa.
Puc: Tại sao cũng đồng là pháp hữu vi, cũng đều có bản tướng biến diệt như nhau nhưng danh pháp lại có thời gian tồn tại ngắn ngủi hơn so với sắc pháp?
Vis: Sở dĩ danh pháp hữu vi có tuổi thọ ngắn ngủi là vì chúng có phận sự là biết cảnh. Trong việc bắt cảnh, tâm là đầu não (padhaana), mà tâm lại là có một pháp chủng (dhammajaati) cực kỳ phù du. Mỗi tâm có một việc làm đối với cảnh, khi đã hoàn thành nhiệm vụ, nó diệt mất. cái tâm khác lại kế tục để làm công việc của mình. Khi tâm biến diệt thần tốc như vậy thì sở hữu cũng bằng vào tốc độ mà diễn biến, vì thế toàn bộ danh pháp hữu vi đều có thời gian tồn tại cực kỳ ngắn ngủi.
Còn đối với sắc pháp, chúng lấy tứ đại làm gốc (padhaana), mà tứ đại lại là một pháp chủng thô kệch, thời gian tồn tại của chúng vì vậy mà kéo dài. Khi Tứ đại sống lâu thì các sắc Y Ðại Sinh cũng nhờ thế mà trường thọ. Ðây là lý do tại sao danh pháp hữu vi lại hiện hữu ngắn ngủi hơn sắc pháp.
Puc: Tại sao hữu phần rúng động và na cảnh mỗi cái đều phải tái hiện hai sát-na liên tục? Ðồng thời hãy dịch nghĩa bài kệ sau đây, trích từ Saccasankhepa-atthakathaa:
Ma.nidhanaatape aggi
Amantopi samaagame
Yathaa hoti tadaa citta.m
Vatthaalambhaadisangame.
Vis: Trước hết là nói về hữu phần rúng động. Khi chưa có cảnh mới xuất hiện thì dòng tư tưởng của chúng sanh sẽ diễn tiến với những tâm hữu phần chủ quan và dĩ nhiên các tâm này vẫn có cảnh nhưng là cảnh cũ thôi. Ðến khi có cảnh ngoại lại hiện đến thì dòng hữu phần chủ quan sẽ bị dao động để bắt đầu bỏ rơi cảnh cũ. Giống như một người đang chạy thật nhanh, nếu muốn dừng lại thì cũng phải chao đảo trong hai ba bước trước khi ngừng hẳn, chớ không thể dừng chân ngay tức khắc được. Ở đây cũng thế, sự hiện khởi của hai sát-na rúng động là một giai đoạn chuyển tiếp không thể thiếu khi một dòng tâm thức chủ quan muốn nhường bước cho một tâm lộ khách quan . Như Ngài Samagalasaami đã ghi trong Vibhaavanii.tiikaa:
"Yathaa vegena dhaavatto
.Thaatukaamo na ti.t.thanti
Eva.m tikkhattu.m bhavanga.m
Uppajjitvaa vaa chijjati"
(Như người đang chạy nhanh
Không thể dừng ngay được
Cũng vậy tâm rúng động
Phải sanh lên hai lần
Ðể cắt dòng chủ quan
nhường bước cho tâm lộ.)
Bây giờ nói vấn đề Na Cảnh. Sở dĩ tâm này phải tái hiện một sát-na là do hai nguyên nhân: sức mạnh của đổng lực và tốc lực của tâm. Theo quy luật, khi tâm khách quan (viithicitta) chưa khởi lên thì tâm chủ quan sẽ tuôn chảy, như một dòng nước, nghĩa là rất bình thường và êm đềm nhưng một khi có tâm khách quan xen vào thì dòng hữu phần chủ quan ấy sẽ bị gián đoạn. Ðiều này đã được nói ở trước nhưng bây giờ lập lại để so sánh với trường hợp của tâm Na Cảnh. Khi tâm đổng lực thứ bảy vừa diệt xong thay vì hữu phần chủ quan tiếp tục tái khởi nhưng sở dĩ phải có hai tâm na cảnh xuất hiện là vì sức tác động của các đổng lực tâm rất mạnh, chúng tuy đã diệt, nhưng vẫn đủ sức khiến cho các sát-na tâm kế tục gần gũi nhất phải tiếp tục tri nhận cảnh sở tri mà mình vừa biết. Các Ngài gọi các tâm kế tục đó bằng cái tên là Tadaalambanacitta (tâm kế thừa cảnh sở tri của dòng đổng lực), chớ không thể gọi là tâm hữu phần bình thường được. Và cũng theo quy luật cố nhiên (dhammaniyaama), sức tác động của các đổng lực chỉ gây ảnh hưởng được 2 sát-na gần nhất mà thôi. điều này cũng giống như một chiếc thuyền đang chạy đi trên sông, cho dầu nước sông có chảy ngược thế nào đi nữa nhưng nhờ sự trợ lực của bánh lái, chiếc thuyền vẫn rẽ nước ngược mà đi lên, dù chút ít thôi. Ðổng lực cũng giúp cho Na cảnh hiện khởi như vậy.
Lại nữa, chính tốc độ của tâm cũng góp phần vào lý do hiện khởi của 2 tâm Na cảnh. Như đối với một hình ảnh chớp nhoáng một âm thanh cực kỳ sắc gọn vẫn đủ để hai mắt cùng thấy, hai tai cùng nghe. Không thể nói là con mắt nào lỗ tai nào nghe thấy trước sau, bởi vì độ bén nhạy của 2 giác quan ấy rất đáng kể.Ở đây cũng vậy, khi 7 đổng lực vừa diệt xong thì 2 sát-na tâm sanh kế đó cũng vẫn còn kịp ghi nhận cảnh sở tri của chúng. Ta có thể tạm hiểu vấn đề đó theo ví dụ vừa đưa ra.
Sau đây là bản dịch của bài kệ ở trước khi các vật liệu tạo lửa đã ma-sát vào nhau thì tự nhiên sẽ có lửa dù trước đó nó chưa có một vật liệu nào cả. Ðiều này thế nào thì khi vật cảnh..., đã đối xúc nhau các tâm khách quan cũng sẽ hiện khởi.
Puc: Tại sao đằng sau các đổng lực kiên cố không có na cảnh, và đối với cả những đổng lực Dục giới bắt cảnh chế định, cảnh đáo đại, cảnh Siêu thế cũng không có na cảnh đi sau? Hãy giải thích tại sao như Phạm Thiên không có tâm na cảnh mà lại có những tâm quả dục giới như nhãn thức chẳng hạn?
Vis: Sở dĩ na cảnh không hiện khởi đàng sau các tâm đổng lực kiên cố vì chỉ có những tâm quả bất thiện hay đại thiện mới đóng vai trò na cảnh được mà thôi, do đó chúng chỉ có thể bám theo các đổng lực bất thiện hay thiện. Ngoài ra, na cảnh cũng có thể nối đuôi đổng lực sinh tiếu, đổng lực đại tố bởi vì các tâm ấy cũng là tâm dục giới giống chúng. Như một đứa bé khi đi đâu cũng phải bám sát bố mẹ của mình nếu không có bố mẹ thì cũng phải đi theo ông bà cô cậu chú bác của mình, chớ không thể đi theo ai khác được. Tâm na cảnh cũng thế, nó chỉ theo sau các đổng lực có cùng Dục giới chủng tử nó. Về điều này trong Vibhaavanii.tiikaa có ghi rằng:
Kaamata.nhaa sannidaana.m
Kaamanibhattabhaavato
Janaka.m ta.m samaana.m vaa
Jaavanam anubandhati
Na tu a~n~na.m tadaalamba.m
Baaladaarakasiilayaa.
"Tâm Na cảnh luôn đi theo sau các đổng lực bất thiện và thiện Dục giới như thể cha mẹ mình, và đi theo các đại tố, giống như đi theo những bà con của mình. Chính vì chỉ có thể đi theo những tâm thuộc dục giới chủng (lấy Dục ái làm gốc Padhaana) nên các tâm Na cảnh không thể nói đuôi các đổng lực kiên cố, các na cảnh giống như thằng bé con đã nói ở trên vậy".
Còn việc tâm na cảnh không thể đi theo sau các đổng lực dục giới (mà) biết cảnh chế định, cảnh đáo đại, cảnh siêu thế cũng giống như đứa bé chỉ có thể đi theo người thân đến những chỗ thích hợp với nó chớ không thể theo người thân đến sở làm hay vào những chỗ mà một đứa con nít như nó không nên tới.
Sỡ dĩ chư Phạm Thiên không có tâm Na cảnh, vì các vị ấy không tái tục bằng tâm quả Dục giới, họ chỉ tái tục bằng các tâm quả Ðáo Ðại, mà các tâm quả này thì không thể tạo ra tâm Na cảnh được. Trong khi người tái tục bằng tâm quả Dục giới thì lại có tâm Na cảnh, vì chính tâm tái tục Dục giới (Kaamapa.tisandhicitta) ấy làm nhân tố tiên khởi - (Pa.thamabiijabandhu) để tạo ra tâm Na cảnh trong thời bình nhật cho họ. Do đó, đối với chư Phạm Thiên không bao giờ có tâm Na cảnh được. Như trong Vibhaavanii.tiikaa ghi:
Biijassaa bhaavato natthi
Brahmaana.m pi imassahi
Pa.tisandhi mano biija.m
Kaamaavacarasa~n~niita.m
"Tâm na cảnh không thể có nơi chư Phạm thiên vì thiếu nhân tố cần thiết. Chỉ có tâm tái tục Dục giới mới có thể làm nhân tố trợ sanh cho tâm Na cảnh mà thôi."
Còn sở dĩ chư Phạm thiên vẫn có các tâm Dục giới như nhau nhãn thức, nhĩ thức dù những tâm này cũng thuộc về quả Dục giới (Kaamavipaaka) như na cảnh, là vì chúng chỉ khởi lên để làm phận sự độc lập của mình, chẳng có liên hệ gì với tâm tái tục. Nhãn thức chỉ có để thấy, nhĩ thức chỉ có để nghe..., vậy thôi. Riêng về tâm na cảnh thì hoàn toàn bị ảnh hưởng từ tâm tái tục. Nghĩa là ai có thần kinh nhãn ấy sẽ đối xúc với cảnh sắc và như vậy thì nhãn thức tự động hiện khởi. Ðối với trường hợp nhĩ thức cũng vậy. Một khi đã có sự gặp gỡ giữa căn, cảnh và thức thì tự dưng sẽ có một tâm lộ ngũ môn xuất hiện. Ðó là quy luật muôn đời của tâm thức (cittaniyaama). Và hễ có tâm lộ ngũ môn thì trong đó cũng sẽ có tiếp thâu, suy đạc, Thế thôi.
Puc: Hãy phân tích những diễn biến tâm lý của một con ruồi qua các tâm lộ, kể từ lúc nó bị đập cho đến lúc chết.
Vis: Nếu nói tóm tắt thì khi bị đập như vậy 1 tâm lộ ý môn sẽ sanh khởi nơi con ruồi, sau đó là tâm lộ thân môn rồi một tâm lộ ý môn tùy thuộc ngũ môn (Tadanuvattikamanodvaaraviithi) sẽ kế tục nhau mà khởi lên và cuối cùng thì sẽ là tâm lộ ý môn cận tử (Nara.naasannamano- dvaaraviithi).
Nếu phân tích rộng rãi thì khi bị đập như vậy tâm khai ngũ môn không thể khởi lên để cắt đứt dòng hữu phần và nhận cảnh mới do đó vào thời điểm này khai ý môn phải xuất hiện để thực hiện việc đó, kế sau khai ý môn sẽ là 5 sát-na đổng lực, cảnh sở tri của chúng là một trong 3 cảnh: Kammaaramma.na, kammanimittaaramma.na, gatinimittaarammaa. Sau giai đoạn đổng lực này, hữu phần lại xuất hiện, rồi tiếp theo là tâm lộ thân môn khởi lên để đón nhận cảnh xúc, trong tâm lộ này cũng chỉ có 5 đổng lực. Hết năm đổng lực thì hữu phần tái hiện. Kế sau lộ thân môn là một tâm lộ tadanuvattika (atiitaggaha.naviithi) khởi lên để tri nhận cảnh xúc quá khứ. Tâm lộ này cũng có 5 đổng lực thôi. Nối tiếp theo sẽ là lộ ý môn cận tử, cảnh sở tri của nó cũng là một trong ba cảnh chủ quan.
Puc: Hãy cho biết tại sao các Ngài lại nói rằng sự hiện khởi của các tâm quả dị thục chắc chắn không thay đổi, còn sự hiện khởi của các tâm đổng lực thì bất định, có khi thay đổi, có khi thì không Hãy giải thích rõ ràng.
Vis: sở dĩ nói các tâm dị thục luôn sinh khởi theo một khuôn mẫu cố định không thay đổi, có nghĩa là khi một tâm lộ khách quan bắt cảnh cực tốt thì từ tâm ngũ song thức cho đến tiếp thâu, suy đạc, na cảnh trong tâm lộ đó đều là tâm dị thục Thiện cả; và tâm Suy Ðạc cùng 2 na cảnh trong đó cũng phải là hỷ thọ. Nếu tâm lộ bắt cảnh tương đối tốt (i.t.thamajjhattaaramma.na ở đây ám chỉ cho Sabhaavi.t.thaaramma.na) thì từ ngũ song thức cho đến tiếp thâu, suy đạc, na cảnh, trong tâm lộ đó cũng đều là tâm dị thục Thiện; và tâm Suy Ðạc cùng 2 na cảnh trong đó đều là xả thọ như nhau. Nếu cảnh của tâm lộ là cảnh bất toại [*] (ani.t.thaar) thì từ ngũ song thức đến tiếp thâu, Suy Ðạc, Na cảnh cũng đều là tâm dị thục bất thiện và tất cả cũng đều thuộc xả thọ như nhau, vì dựa vào lý do này nên các Ngài bảo rằng các tâm quả dị thục luôn hiện khởi theo một khuôn mẫu cố định.

[*] Cũng ám chỉ sabhaavaani.t.thaaramma.na (chú thích theo nguyên bản).
Còn đối với các tâm đổng lực, các ngài nói rằng chúng không sanh khởi theo khuôn mẫu cố định là vì khía cạnh cảm thọ các đổng lực không phải lúc nào cũng tương ứng với cảnh. Nói vậy có nghĩa là đối với phàm phu (còn đủ Sa~n~naavipallaasa, cittavipallaasa, và di.t.thivipallaasa) cùng chư Thánh nhân hữu học (chỉ còn sa~n~naavipallaasa, cittavipallaasa) thì Thọ trong các đổng lực của họ có thể không trùng khớp, tương ứng với cảnh bởi có khi thay vì khởi lên đổng lực hỷ thọ trước cảnh cực tốt, họ lại khởi lên đổng lực sân, đổng lực xả thọ (hoặc thiện hoặc bất thiện). Việc bất ứng đó do hai nguyên nhân: Vì vipallaasa (điên đảo kiến) chi phối hay do Sattisampaja~n~na điều hành. Do vậy, các Ngài mới nói rằng tâm đổng lực không có khuôn mẫu cố định.
Chỉ có đổng lực duy tác (kiriyaajavana) mới vận hành theo khuôn mẫu cố định. Nghĩa là khi nào chư La Hán biết cảnh cực tốt thì khi ấy Duy tác Ðổng lực hỷ thọ (Samanassakiriyaajavana) sẽ khởi lên, khi nào các vị biết cảnh khá tốt (i.t.thamajjhattaaramma.na) hoặc bất hảo (ani.t.tha.) thì upekkhaakriyaajavana sẽ khởi lên. Ðó là khuôn mẫu cố định cho sự hiện khởi các đổng lực của vị La Hán.
Từ đó ta có thể suy ra rằng khi Ðức Phật hay chư La Hán trông thấy một loài ngạ quỷ dị dạng nào đó các Ngài vẫn có thể mỉm cười, nhưng có phải các Ngài đã dùng đổng lực duy tác hỷ thọ để ghi nhận hình ảnh của con ngạ quỷ không? Ðiều này ta phải hiểu rằng khi vừa nhìn thấy con ngạ quỷ, các ngài chỉ khởi lên đổng lực xả thọ; sau đó, lúc quán xét đến hạnh nghiệp bất thiện đã huân tập của nó rồi xét tới tình trạng an ổn tuyệt đối của mình trong hiện tại đối với vấn đề sinh tử luân hồi và sa đọa ác thú cũng như những pháp tánh mà mình đang có được nên các ngài mới mỉm cười, lúc này mới đúng là đổng lực duy tác hỷ thọ. Trong trường hợp này ta nên biết thêm là tốc lực sinh diễn của tâm cực kỳ mau lẹ, tâm lộ khách quan biết cảnh " ngạ quỷ" với tâm lộ khách quan biết cảnh "thượng pháp tánh" nối đuôi nhau 1 cách chặt chẽ. Các đổng lực duy tác hỷ thọ ở đây chỉ biết cảnh "thượng pháp tánh" chớ không biết cảnh "ngạ quỷ", cảnh này đã được đổng lực xả thọ biết rồi.
Puc: Hãy trưng dẫn những trường hợp đổng lực bất thiện có cảm thọ không tương ứng với cảnh sở tri.
Vis: Có tất cả mười trường hợp đổng lực bất thiện có Thọ không tương ứng với cảnh:
1) Do điên đảo kiến (vipallaasadhamma) chi phối, khởi lên đổng lực sân đối với cảnh cực tốt hay tương đối tốt. Như trường hợp một người ngoại đạo gặp Ðức Phật trong sáu màu hào quang hoặc gặp một vị Tỷ kheo đầy đủ uy nghi tế hạnh, các căn chói sáng anh ta vẫn có thể khởi lên tâm bực dọc, thù nghịch; hoặc nghe giảng lý chân đế...
2) Do tâm Si chi phối nên khởi lên đổng lực sân đối với cảnh cực tốt hay tương đối tốt; như trường hợp thấy người khác đang tu Quán, đang học Abhidhamma, mình không hiểu giá trị của những việc làm đó, và đâm ra bực dọc cho rằng đó là lập dị, hoài công...
3) Do Vipallaasaddhamma chi phối nên khởi lên đổng lực bất thiện xả thọ đối với cảnh cực tốt. Như những Tăng Tín Ðồ không quan tâm đến Phật lý tinh hoa như học Abhidhamma hay tu, Quán, họ nói những việc đó là mơ hồ, thiếu thực tế, nói chung họ không thích thú say mê trong Phật học mà chỉ chạy theo thế học đờøi thường. Hay khi họ không tìm được chứng minh cụ thể nào về Phật Pháp nên từ đó đâm ra lơ-là xao lãng.
4) Do sân chi phối nên khởi lên đổng lực xả thọ đối với cảnh cực tốt. Như một người đang có chuyện buồn thì đối với những lạc thú hấp dẫn, họ cũng không còn cảm xúc bồng bột sôi nổi như ngày nào nữa, chính tâm sự buồn kia đã hạn chế các cảm xúc đó.
5) Do si chi phối nên khởi lên đổng lực bất thiện xả thọ đối với cảnh cực tốt như một nông dân trước giờ chưa biết tới ngọc ngà châu báu là gì nên khi đứng trước viên kim cương đắt giá anh ta chỉ cảm thấy nó đẹp mắt, một thứ tham hời hợt không sôi nổi.
6) Do mạn chi phối nên khởi lên đổng lực bất thiện xả thọ trong cảnh cực tốt. Như một người có địa vị cao, có nhiều tài sản khi ngồi vào một bàn ăn đầy ắp những thức cao lương, thay vì khởi lên sự thích thú như bao kẻ khác nhưng anh ta hoặc vì ý thức cương vị của mình hoặc vì nghĩ rằng "đối với ta thì những món này có gì đáng để phải chú ý bận tâm".
7) Do Vipallaasa chi phối nên khởi lên đổng lực bất thiện hỷ thọ đối với cảnh tương đối tốt (i.t.thamajjhattaaramma.na). Như người chưa từng được món gì quí giá đắt tiền nền đến khi gặp một vật tầm thường cũng thích thú tột độ.
8) Do vipallaasa chi phối nên khởi lên đổng lực bất thiện hỷ thọ trong cảnh cực xấu (ati-ani.t.thaaramma.na.) Như kên kên gặp xác chết, chó gặp phẩn...
9) Do vipallaasa chi phối nên khởi lên đổng lực bất thiện xả thọ trong cảnh cực xấu hay tương đối xấu (ani.t.thamajjhattaaramma.na). Như đao phủ thủ đối với người tử tội, kẻ đạo tỳ đối với tử thi họ không có cảm xúc gì đặc biệt trước những cảnh đó.
10) Do si chi phối nên khởi lên đổng lực bất thiện hỷ thọ hoặc thọ trong cảnh cực xấu hay tương đối xấu. Như đứa bé chơi đùa với phẩn của mình hoặc kẻ không hiểu pháp đi thân cận với người ác hạnh.
Puc: Hãy trưng dẫn những trường hợp tâm đổng lực thiện có Thọ không tương ứng với cảnh sở tri.
Vis:
1) Do chánh niệm tỉnh giác mà khởi lên đổng lực thiện xả thọ trong cảnh cực tốt như vị hành giả tu tập về đề mục "vật thực đáng gớm" thì trước các mỹ vị ngon lành vị ấy vẫn thờ ơ hờ hững. Hoặc trường hợp hành giả tu Quán đứng trước cảnh trần hấp dẫn chẳng hạn.
2) Do tín hay chánh niệm tỉnh giác nên khởi lên đổng lực thiện hỷ thọ trong cảnh tương đối tốt. như người dồi dào tịnh tín trông thấy đông đảo chư tăng thì liên tưởng tới Ðức Phật cùng thánh chúng xưa kia, cho dù chư tăng trước mặt họ có là những vị trẻ tuổi, bé nhỏ đi nữa.
3) Do chánh niệm tỉnh giác mà khởi lên đổng lực thiện hỷ thọ hay xả thọ trong cảnh cực xấu hoặc tương đối xấu. Như trường hợp hành giả tu Quán đang quan sát tử thi chẳng hạn.
Puc: Y cứ vào đâu để nói rằng đó là cảnh tốt (i.t.thaaramma.na), cảnh xấu (ani.t.thaaramma.na)?
Vis: Ðể phân định đâu là cảnh tốt, đâu là cảnh xấu ta phải dựa trên năm khía cạnh: Majjhimapuggala, vipaakacitta, dvaara aaramma.na và kaala. Sau đây là thành phần minh giải:
1) Majjhimapuggala hay majjhattapuggala: Ðây là yếu tố đầu tiên để phân định tính chất của cảnh sở tri là tốt hay xấu. Lẽ thường các bậc cao nhân không hề bị giao động trước ngoại cảnh dù nó có thể nào đi nữa, mà chỉ có người tầm thường hay hàng súc sanh mới có "tình cảm" thiên lệch trong cảnh sở tri: tốt thì thích, xấu thì ghét. Do đó, người hưởng cảnh được xem là một trong những chi tiết không thể thiếu trong việc phân định tính chất tốt xấu của cảnh.
2) Vipaakacitta: Trước cảnh tốt, tâm dị thục ghi nhận sở tri là xấu thì tâm quả bất thiện sẽ tiếp nhận nó. Ta không thể dựa vào đổng lực để phân định đâu là cảnh tốt đâu là cảnh xấu bởi vì như đã nói, có rất nhiều trường hợp tâm đổng lực không tương ứng với cảnh mà nó đang tri nhận. Như một người ngoại giáo trông thấy Ðức Phật, anh ta đón nhận hình ảnh khả kính đó bằng tâm quả thiện nhưng để thưởng thức hình ảnh đó thì anh ta phải dựa vào tâm quả dị thục mà phân định cảnh tốt xấu.
3) Dvaara: Nếu chỉ lấy một cục phẩn áp vào da thịt ta thì ta có thể nói là khá êm ái (vừa âm ấm vừa mềm mềm!) nhưng nếu lấy mắt mà nhìn hay lấy mũi mà ngửi thì phải nói rằng cục phẩn nọ là đáng gớm. Tại sao vậy? Bởi vì mỗi môn có một chức năng khác nhau nên khi đối xúc với cùng một cảnh, mỗi môn biết cảnh theo một khía cạnh. Theo như trường hợp cục phẩn vừa nêu trên thì ta thấy rõ ràng là cục phẩn đã trở thành cảnh tốt cho thân môn nên lộ ý môn tiếp nối với tâm lộ thân môn đó cũng chỉ biết cảnh tốt. Nhưng vì cục phẩn đã trở thành cảnh xấu cho nhãn môn và tỷ môn nên do đó tâm lộ ý môn tiếp nối theo chúng cũng phải biết cảnh xấu. Hay đối với một cảnh hoa hồng, lấy mắt nhìn thì đó là cảnh tốt nhưng đem áp vào da thịt thì sẽ trở thành cảnh xấu cho thân môn. Vậy muốn phân định cảnh tốt xấu ta phải y cứ vào môn.
4) Aaramma.na: Các khía cạnh sai biệt của cảnh sở tri cũng là một cơ sở để khẳng định tính chất tốt xấu của nó như có những nhân vật nói về ngoại hình thì chao ôi là thiên kiều bá mị, giọng nói cứ như là oanh vàng lảnh lót nhưng trên khía cạnh tánh tình (cittanissaya) thì chưa ngoa, đanh đá, trắc nết, rồi bên cạnh đó còn có những nhân vật nói về cảnh khí thì bất khả ý, nhưng trên cảnh sắc thì khả ái đến tuyệt hảo, hoặc trên cảnh vị thì hấp dẫn nhưng trên cảnh sắc thì thấy gớm. Do đó, ta phải lưu ý tới những khía cạnh tương phản, mâu thuẩn trong các sự vật để phân định cảnh tốt xấu.
5) Kaala: Thời gian, nói chính xác hơn thì thời điểm, cũng là một cơ sở quan yếu để phân định cảnh tốt xấu. Ta hãy cứ tưởng tượng ra: Trong những ngày nắng hạ ngọn lữa là hung thần. Khi Ðông đến, nó là mẹ hiền cho tất cả. Giữa ban trưa, ngọn gió là người bạn nhưng trong những đêm lạnh, nó đáng ghét làm sao! - Vậy muốn nói rằng đó là cảnh tốt hay xấu, ta phải lưu ý đến khía cạnh: Nó hiện khởi đúng lúc hay không?
Puc: Có mấy lộ ý môn có đổng lực kiên cố? Cảnh của chúng là gì, CHÓT (vaara) của chúng?
Vis: Có tất cả 7 tâm ý môn kiên cố :
1) Aadikammikajhaanaviithi (lộ chứng nhập thiền định lần đầu).
2) Jhaanasamaapattiviithi (tâm lộ nhập định để hưởng thiền lạc).
3) Paadakajhaanaviithi (lộ nhập thiền để chuẩn bị hiện thông - Paadakajhaana là từ chuyên môn để gọi pa~ncamajjhaana).
4) Abhi~n~naaviithi (tâm lộ trong lúc đang hóa hiện thần thông).
5) Maggaviithi (tâm lộ diễn ra khi đắc thánh).
6) Phalasamaapattiviithi (tâm lộ nhập định để thưởng thức Níp-bàn lạc).
7) Nirodhasamaapattivihtii (tâm lộ nhập định để tạm thời giải thoát danh uẩn)
Cảnh của các tâm lộ này chỉ có hai trường hợp là cực rõ hoặc rõ. Và chúng chỉ thuộc chót đổng lực (javanavaara).
Puc: Hãy trưng dẫn quy trình sinh diễn của các tâm lộ sau đây:
Aadikammikajhaanaviithi: (Tâm lộ khởi chứng thiền định) của người độn căn.
Jhaanasamaapattiviithi : (Lộ nhập định)
Sotaapattimaggaviithi: (Tâm lộ đắc sơ đạo) của người lợi căn.
- Lộ đắc đạo cao của người độn căn.
- Lộ nhập thiền quả của cả người độn căn lẫn lợi căn.
Vis:
a) Aadikammikajhaanaviithi của người độn căn:
Khi hành giả tu thiền (bằng ba mươi đề mục) gần đến lúc đắc định thì một pa~n~nattipa.tibhaaganimitta (Quang tướng chế định) nào đó trong 30 đề mục mà mình đã chọn, sẽ khởi lên qua ý môn vào thời điểm này Rúng Ðộng, Dứt dòng xuất hiện rồi tiếp theo đó là khai ý môn, khởi lên để đón nhận Quang tướng ấy. Sau khai ý môn sẽ là giai đoạn Upacaarasamaadhijavana gồm 4 đổng lực đại thiện hay Tố hợp trí, mỗi sát-na đổng lực ở đây đều có tên gọi riêng: Parikamma, upacaara, anuloma, gotrabhuu. Tiếp theo đó, Tâm Thiền thiện hay Thiền tố sẽ khởi lên một sát-na để ghi nhận cảnh pa~n~nattibhaaganimitta. Ta gọi sát-na Thiền này là appanaasamaadhijavana. Sau đó, hữu phần chủ quan lại xuất hiện.
Thế rồi kế tục giai đoạn hữu phần đó sẽ là 1 tâm lộ ý môn có đổng lực là đại thiện hay đại tố sẽ khởi lên để làm cái công việc phản khán chi thiền, ta gọi tâm lộ này là Paccavekka.naviithi. Sau khi tái hiện nhiều lần, một cách thích ứng, tâm lộ này cũng sẽ diệt đi.
b) Jhaanasamaapattiviithi: (Lộ nhập định)
Thiền giả (jhaanalaabhii) muốn nhập định thì cứ chú nguyện rằng: "Mong rằng tâm ... (sơ thiền..., ngũ thiền) mà tôi đã chứng hãy khởi lên nơi tôi suốt thời gian ... (bao lâu tùy thích). "Rồi vị ấy tập trung tâm lực vào Patibhaaganimitta của đề mục mà mình đã nhờ đó mà đắc thiền, và chú niệm: tejo! tejo! (hay aapo, pa.thavii ... hoặc sabbe sattaa, paa.naa averaa hontu!...).
Trước khi tâm thiền xuất hiện, Rúng động, dứt dòng sẽ có mặt rồi khai ý môn, 3 hoặc 4 đổng lực Ðại thiện hay Ðại tố tương ưng trí (tùy người) khởi lên để đón nhận pa.tibhaaganimittavới tư cách là parikamma, upaacaara, anuloma, gotrabhuu (nếu là người lợi căn thì không có parikamma). hết giai đoạn đó (lúc Gotrabhuu vừa diệt xong) thì tâm thiền hiện khởi liên tục bất định số, cho đến khi nào hết thời hạn mà mình đã chú nguyện. Lúc tâm thiền cuối cùng vừa diệt xong hữu phần lại xen vào rồi lại nhường chỗ cho tâm lộ phản khán (paccavekkha.naviithi).
c) Tâm lộ chứng đạt sơ đạo của người lợi căn:
Trước khi một hành giả tu quán chúng đạt đạo quả, viên tri tam tướng một cách tận tường thì Rúng động, Dứt dòng khởi lên để chấm dứt dòng tâm chủ quan, kế đó tâm khai ý môn sẽ khởi lên để đón nhận thức tính danh sắc, rồi 1 trong 4 tâm đại thiện hợp trí sẽ khởi lên 3 lần (3 sát-na) với tư cách là cận hành, Thuận thứ, chuyển tộc (hay việt- chủng) Gotrabhuu . Cận hành, thuận thứ thì biết cảnh danh sắc thực tính, còn Chuyển tộc thì biết cảnh Níp-bàn, đồng thời đóng vai trò dẫn nhập (Aavajjana) cho tâm Sơ đạo, chức năng c?a chuyển tộc là chấm dứt phàm chủng. Kế tục tâm chuyển tộc là 1 sát-na Sơ Ðạo, nó khởi lên để biết cảnh Níp-Bàn đồng thời cũng để đoạn trừ kiến và nghi. Sau sát-na Thánh Ðạo là 3 sát-na sơ quả xuất hiện để biết cảnh Níp-bàn. Tâm sơ quả diệt xong hữu phần xen vào rồi tiếp theo đó sẽ là 1 tâm lộ ý môn có đổng lực đại thiện hợp trí. Tâm lộ này có tên gọi là Paccavekkha.naviithi, nhiệm vụ của nó là quán xét Níp-bàn, Ðạo Quả, phiền não đã diệt và phiền não còn dư sót. Paccavekkha.naviithi sẽ tái hiện nhiều lần, một cách thích ứng với mỗi trường hợp. Ðây là quy trình chứng đạt sơ quả của người lợi căn.
d) Tâm lộ chứng Ðạo cao của người độn căn:
Trong thời điểm thánh đạo bậc cao sắp hiện khởi, trước hết sẽ có rúng động, Dứt dòng rồi tiếp theo đó, khai ý môn khởi lên để đón nhận cảnh danh sắc thực tính. Sau khi ý môn thì đến 4 đổng lực đại thiện hợp trí (1 trong 4 thôi nhưng sanh lên 4 bận). Mỗi sát-na đổng lực ở đây đều có tên gọi riêng: Parikamma, upacaara, anuloma và vodaana. 3 đổng lực đầu vẫn còn biết cảnh danh sắc nhưng vodanaa thì lại biết cảnh Níp-bàn với tư cách là tâm dẫn nhập (aavajjana) của 3 tầng Thánh đạo cao cấp. Vodanaa vừa diệt xong thì một trong 3 tâm thánh đạo bậc cao (Tư Ðà Hàm, A La Hán) sẽ khởi lên một sát-na để biết cảnh Níp-bàn và đoạn diệt phiền não ứng trừ. Kế tục sát-na Thánh đạo sẽ là 2 sát-na Thánh Quả chúng cũng biết cảnh Níp-Bàn. Hai sát-na Thánh Quả diệt xong, hữu phần xen vào rồi lại nhường chỗ cho tâm lộ phản khán (paccavekkha.naaviithi) khởi lên để quán xét Ðạo Quả, Níp-bàn, phiền não đã hết và hiện còn sót. Sau nhiều bận sinh diệt, (tái hiện nhiều lần), tâm lộ này mới chấm dứt.
e) Phalasamaapattiviithi của người độn căn và lợi căn:
Các vị Thánh nhân muốn an hưởng giải thoát lạc (vimuttisukha) thì chú nguyện rằng "Siêu Thế pháp nào mà ta đã chứng đạt rồi xin hãy khởi lên và cảnh hữu vi pháp (sankhatadhammaaramma.na) hãy vắng mặt suốt thời gian... (bao lâu tùy thích)". Rồi các vị mới chú quán vào 4 niệm xứ để ghi nhận danh sắc trong nội thân. Trước khi tâm thánh quả khởi lên, rúng động và dứt dòng luôn xuất hiện trước hết rồi tiếp theo đó, khai ý môn có mặt để ghi nhận thực tính danh sắc. Sau khai ý môn là 4 hay 3 sát-na đổng lực Ðại thiện ương ưng trí hoặc đại tố tương ưng trí. Ðối với người độn căn thì ở thời điểm này có tới 4 sát-na đổng lực nhưng đối với người lợi căn thì chỉ có 3 thôi. Các đổng lực này xuất hiện với tư cách là anuloma. Khi đổng lực cuối cùng vừa diệt xong thì tâm thánh quả khởi lên lập tức, và cứ thế cho đến hết thời hạn đã chú nguyện, tâm Thánh quả sinh rồi diệt, diệt rồi sinh liên tục, bất định số lượng. Khi tâm Thánh quả cuối cùng vừa diệt xong thì hữu phần xen vào rồi sau đó lộ phản khán (Siêu thế pháp cùng phiền não) khởi lên.
Puc: Có bao nhiêu jhaanaviithi? Có bao nhiêu paccevekkha.naviithi bắt nguồn từ jhaanaviithii?
Vis: Có tất cả 72 tâm lộ jhaanaviithi: 36 tâm lộ aadikammikajhaana-viithi và 36 lộ samaapajjanaviithi.
Nói aadikammikajhaanaviithi có 36 tâm lộ là lấy 9 thiền thiện (kusalajhaana) cộng với 9 thiền tố (kriyaajhaana) rồi nhân với hai hạng lợi căn, độn căn. Ðối với 36 tâm lộ Samaapajjanaviithi cũng tính theo cách đó.
* Có tất cả 1536 tâm lộ phản khán kế tục tâm lộ chứng nhập thiền định (jhaanaviithi).Sau đây là cách tính để có được con số ấy: ï
- Trước hết nói về tầng sơ thiền, ta lấy tâm thiện sơ thiền và tố sơ thiền nhân với hai trường hợp Aadikammikajhaana và samaapajjana-jhaana thành ra có được tính số là 4. Lấy số này nhân với hai hạng: độn căn, lợi căn thành ra 8. Ta lại lấy số tám này nhân với năm chi thiền mà nó phản khán, thành ra 40. Trong số 40 này, ta lại chia ra 2: 20 sơ thiền thiện, 20 sơ thiền tố. Lấy 20 sơ thiền thiện nhân với 8 đại thiện mà chúng dùng để phản khán rồi lấy 20 sơ thiền tố nhân với 8 đại tố mà chúng dùng để phản khán rồi lấy 20 sơ thiền tố nhân với 8 đại tố mà chúng dùng để phản khán vậy phần thiện có được 160 tâm lộ, phần tố cũng có 160 tâm lộ. Cộng hai bên lại ta sẽ thấy ngay là có tất cả 320 tâm lộ phản khán kế tục các tâm lộ chứng nhập Sơ thiền.
- Cách tính theo theo tầng nhị thiền cũng tựa như trước nghĩa là sau khi nhân với hạng người để có được số 8, ta lại lấy số 8 này đem nhân với 4 chi thiền thành ra 32. Trong 32 tâm lộ này ta lại lấy 16 nhị thiền Thiện nhân với 8 đại thiện (dùng trong lúc phản khán), lấy 16 nhị thiền Tố nhân với 8 đại tố (dùng đề phản khán) thì thành ra có đến 128 tâm lộ nhị thiền thiện 128 tâm lộ nhị thiền tố. Vậy tổng số của hai bên là 256. Ta nói: Có tất cả 256 tâm lộ phản khán kế tục các tâm lộ chứng nhập nhị thiền.
- Ở tầng tam thiền, ta cũng lấy số 8 cơ bản (thiện, tố, chứng, nhập x 2 hạng người) để nhân với 3 chi thiền ứng-phản-khán thành ra 24. Trong số 24 này, ta lại lấy 12 tam thiền thiện nhân với 8 đại thiện, lấy 12 tam thiền tố nhân với 8 đại tố. Do đó, bên thiện có 96 tâm lộ, bên tố cũng có 96 tâm lộ là tổng số các tâm lộ phản khán kế tục các tâm lộ chứng nhập tam thiền có được 192 tất cả.
- Bây giờ tính qua tầng tứ thiền. Trước hết cũng lấy số 8 cơ bản đem nhân với 2 chi thiền ứng phản khán, ta có 16. Trong con số 16 này, ta lại lấy 8 tứ thiền thiện nhân với 8 đại thiện, 8 tứ thiền tố nhân với 8 đại Tố. Vì vậy, bên thiện có được 64 tâm lộ, bên tố cũng thế ta nói: Tâm lộ phản khán kế tục các tâm lộ chứng nhập tứ thiền có tất cả là 128.
- Cuối cùng thì đến tầng ngũ thiền Ta lấy 40 (10 tâm ngũ thiền đổng lực chứng nhập nhân 2 người nhân với 2 chi thiền thành ra 80). Trong 80 này, ta lấy 40 ngũ thiền thiện nhân với 8 đại thiện, 40 ngũ thiền tố nhân với 8 đại Tố, cộng cả hai tích số đó lại ta có 640. Ta nói: Tổng số của các tâm lộ phản khán kế tục các tâm lộ chứng nh?p ngũ thiền là 640. Bây giờ ta hãy tổng kê lại:
a) Tâm lộ phản khán Sơ thiền có 320
b) Tâm lộ phản khán nhị thiền có 256
c) Tâm lộ phản khán tam thiền có 192
d) Tâm lộ phản khán tứ thiền có 128
e) Tâm lộ phản khán ngũ thiền có 640
Tổng cộng 1. 536
Puc: Trước khi nhập thiền định, nhập (thiền) quả định, Diệt thọ tưởng định và hóa thông phải làm sao? Và ta có thể gọi một giấc ngủ say là bhavangasamaapatti (hữu phần định) hay không?
Vis:
* Việc cần làm trước khi nhập thiền định.
Thiền giả muốn nhập thiền định thì chú nguyện rằng "Sơ thiền (hay một tầng thiền sắc giới, Vô sắc giới nào đó mà mình muốn) mà tôi đã chứng đạt xin hãy khởi lên nơi tôi suốt thời gian...(bao lâu tùy mình thích)". Rồi vị ấy mới chú niệm vào quang tướng của án xứ (mà mình đã nhờ đó mà đắc thiền) và niệm rằng "Pathavii! Pathavii!" hay "Aapo! Aapo!"...
* Trước khi nhập quả định:
Muốn nhập thiền quả, vị thánh phải chú nguyện: "Siêu thế pháp nào tôi đã chứng đạt hãy khởi lên nơi tôi trong suốt thời gian... và trong cả thời gian đó xin cảnh hữu vi pháp hãy vắng mặt". xong rồi vị ấy tác quán 4 niệm xứ để ghi nhận danh sắc nội thân.
* Trước khi nhập thiền diệt:
Bậc Tam Quả hoặc La Hán muốn nhập diệt thọ tưởng định thì trước hết phải nhập sơ thiền, sau khi xuất khởi sơ thiền thì dùng trí quán sát tâm sơ thiền cùng sở hữu hợp đã diệt qua khía canh tam tướng hết sơ thiền thì tới nhị thiền, cũng làm đúng như vậy. Cứ thế cho tới tầng Vô sở hữu xứ, Sau khi xuất khỏi vô sở hữu xứ, không cần phải quán xét tam tướng của tâm thiền đó nữa, mà phải thực hiện 3 việc tiên quyết (pubbakicca) sau đây, bỏ chi Satthu pakkosana:
1) Naanaa baddha-avikopana: Chú nguyện rằng xin cho các vật dụng ngoại thân như y áo tôi đừng đừng bị lý do gì mà hư mất.
2) Sanghapa.timaana: Chú nguyện rằng xin cho tôi tự nhiên xuất khỏi diệt định (Nirodhasamaapatti) khi chư tăng có ý muốn vời đến.
3) Addhaanapariccheda: Quán xét thọ mạng của mình xem có sống được tối thiểu một tuần lễ hay không. Nếu xét thấy mình không thể sống hơn một tuần lễ thì vị A Na Hàm không nên nhập Diệt Ðịnh, bởi phải dành thời giờ mà tu Quán để tiến đạt La Hán quả.
Nếu đương sự muốn nhập diệt định là La hán, thì khi xét thấy mình không sống trọn một tuần lễ nữa phải chú nguyện cho xuất định trước ngày viên tịch để còn có thời giờ từ giả hay giáo giới bạn đồng trú.
Trong ba việc tiên quyết vừa kể, đối với hai điều đầu có thể không chú nguyện cũng được nhưng đối với điều cuối thì bắt buộc phải làm nếu đương sự nhập định sống tại cõi người. Còn trên cõi Phạm Thiên sắc giới thì khỏi phải làm pubbakicca nào cả, nếu có chỉ làm điều cuối cùng (addhaanapariccheda). Sau khi đã làm xong pubbakicca, vị thánh mới nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tâm phi tưởng phi phi tưởng khởi lên liên tục 2 sát-na rồi kể từ đó danh pháp cùng sắc tâm hoàn toàn vắng mặt; ở vị ấy lúc đó chỉ còn sắc nghiệp, sắc quí tiết và sắc vật thực. Ngay thời điểm vô thức đó được gọi là đã nhập Diệt Ðịnh vậy.
* Trước khi hóa thông:
Vị thiền giả muốn hóa hiện thần lực thì trước hết phải nhập thiền cơ (paadakajhaana) bằng cách chú nguyện rằng "Ngũ thiền sắc giới nào tôi đã chứng đạt xin hãy khởi lên nơi tôi" rồi vị ấy chú niệm vào kasi.na (không dùng án xứ khác được) quy trình xuất hiện của ngũ thiền này như sau: Rúng động, dứt dòng, khai ý chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tộc, rồi tâm ngũ thiền sắc giới sẽ khởi lên liên tục, hết cái này đến cái khác, suốt thời gian một sao hay một giây (vinaadiinaadii). Ðây là thiền cơ vậy.
Khi xuất khỏi ngũ thiền thì liền chú nguyện điều mình muốn hóa hiện, như muốn phi hành trên không chẳng hạn thì chú nguyện rằng "xin cho cơ thể tôi hãy bay bổng lên không" hoặc nếu muốn nhìn thấy cõi địa ngục thì chú nguyện "xin cho tôi thấy được nếp sinh hoạt dưới địa ngục"... Nói chung muốn làm cái gì thì ước nguyện cái đó. Tâm lộ diễn tiến trong lúc đang ước nguyện được gọi tên là parikammaviithi, quy trình của nó như sau: Rúng động, dứt dòng, khai ý, 7 đổng lực rồi trở lại hữu phần chủ quan, cứ theo khuôn mẫu này Parikammaviithi tái hiện vô số lần.
Sau khi ước nguyện xong, tức là lúc các tâm lộ Parikammaviithi đã chấm dứt thì vị thiền giả lại nhập thiền cơ một lần nữa, diễn biến của tâm lộ thiền cơ này cũng giống như ở tâm lộ thiền cơ thứ nhất khi vừa xuất khỏi thiền cơ bận nhì thì tâm lộ hóa thông xuất hiện (Abhi~n~naaviithi), đồng thời những gì thiền giả đã ước nguyện khi nãy bây giờ đều thành tựu. Diễn biến của tâm lộ hóa thông như sau: Rúng động, dứt dòng, khai ý, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tộc, một tâm thông (chỉ một sát-na thôi) rồi hữu phần tái khởi.
Bây giờ bàn về vấn đề "giấc ngủ say có thể được gọi là Bhavangasamaapatti hữu phần định - hay không?" Ðiều có chắc chắn không thể được, ta chỉ có thể gọi giấc ngủ là Bhavangapattihay Bhavangapaata mà thôi, bởi vì cái lạc trong giấc ngủ hầu hết chúng sanh ai cũng thưởng thức được riêng về Samaapattisukha (định lạc) thì không phải ai muốn thưởng thức cũng được, định lạc không phải là thứ an lạc phổ cập đến mọi chúng sanh. Chỉ cần cái danh từ để gọi nó cũng đủ để ta hiểu rõ điều đó. Samaapatti có nghĩa là tham dự vào cái gì tham dự vào cảnh ưu việt.
Puc: Hãy kể rõ những động lực kiên cố (appanaajavana) sanh kế tục các đại thiện tương ưng trí hỷ thọ - xả thọ (mỗi bên 2) và những động lực kiên cố sanh kế tục các tâm đại tố tương ưng trí hỷ thọ xả thọ. Ðồng thời trưng dẫn một câu Paali chứng minh.
Vis:
- Có 32 đổng lực kiên cố sanh kế tục 2 tâm đại thiện hỷ thọ tương ưng trí 4 đại thiện sắc giới hỷ thọ, 16 Thánh Ðạo hỷ thọ 12 Thánh quả hỷ thọ.
- Có 12 đổng lực kiên cố sanh kế tục 2 tâm đại thiện xả thọ tương ưng trí: 5 ngũ thiền hiệp thế, 4 Thánh đạo ngũ thiền 3 Thánh quả hữu học ngũ thiền.
- Có 8 đổng lực kiên cố sanh kế tục 2 tâm đại tố hỷ thọ tương ưng trí: 4 Tố sắc giới hỷ thọ, 4 La Hán quả hỷ thọ.
- Có 6 đổng lực kiên cố sanh kế tục 2 đại tố xả thọ tương ưng trí: 5 tố ngũ thiền và La Hán Quả ngũ thiền.
Ðây là câu Paali chứng minh:
Dvatti.msa sukhapu~n~namhaa
Dvaadasopekkhaa para.m
Sukhitakriyato a.t.tha
Cha sambhonti upekkhakaa!
Puc: Hãy dịch giải câu kệ sau đây:
Puthujjhanaana sekkhaana.m
Kaamapu~n~natihetuko
Tihetukaamakriyato
Viitaraagaanamappanaa.
Vis: Có 44 đổng lực kiên cố có thể sanh kế tục 4 tâm đại thiện tương ưng trí của phàm phu tam nhân cùng Thánh hữu học và chỉ có 14 đổng lực kiên cố có thể sanh kế tục 4 đại tố tương ưng trí của bậc La hán.
* Trong trường hợp thứ nhất ta phải hiểu rằng nếu tính chung thì bảo là có 44 đổng lực kiên cố có thể sanh kế tục 2 đại thiện tương ưng trí của phàm tam nhân cùng ba tầng thánh hữu học nhưng nếu tính chi tiết thì ta phải lấy số 44 ấy phân thành bốn trường hợp nhỏ:
a) Có 14 đổng lực kiên cố có thể sanh kế tục đại thiện tương ưng trí của phàm tam nhân là 9 thiện Ðáo đại và 5 tâm Sơ đạo, nghĩa là đối với phàm tam nhân nếu tu chỉ thì có thể chứng đạt các tầng thiền sắc giới, còn nếu tu Quán thì cũng có thể chứng ngộ thành bậc Dự Lưu.
b) Có 19 đổng lực kiên cố có thể sanh kế tục Ðại thiện tương ưng trí của bậc Dự Lưu: 9 thiện Ðáo đại, 5 tâm Nhất lai đạo, và 5 tâm Sơ quả. Cách hiểu cũng giống như trên.
c) Có 19 đổng lực kiên cố có thể sanh kế tục đại thiện tương ưng trí của bậc Nhất lai là 9 thiện Ðáo đạo, 5 tâm Tam Ðạo và 5 tâm Nhất lai quả.
d) Có 19 đổng lực kiên cố có thể sanh kế tục tâm đại thiện tương ưng trí của bậc bất lai là 9 thiện Ðáo đại, 5 tâm Tứ đạo và 5 tâm Tam Quả.
* Ðối với trường hợp thứ hai , ta phải hiểu rằng 14 đổng lực kiên cố có thể sanh kế tục 4 đại tố tương ưng trí của bậc La Hán chính là 9 tâm Tố Ðáo đại và 5 tâm Tứ quả, và đây là những trường hợp mà 14 đổng lực kia sanh kế tục 4 đại tố tương ưng trí của bậc La Hán.
a) Khi chứng đạt thiền Hiệp thế lần đầu tiên trong đời, vào tâm lộ Aadikajhaanaviithi của vị Tứ quả, 9 Tố đáo đại sanh kế tục một đại tố tương ưng trí nào đó.
b) Khi vị A La Hán có thiền muốn nhập định Hiệp thế thì vào tâm lộ Samaapattiviithi 9 Tố đáo đại sẽ sanh kế tục một trong 4 đại tố tuơng ưng trí.
c) Khi vị La Hán muốn hóa thông thì trong tâm lộ Abhi~n~naaviithi tâm tố sắc giới ngũ thiền sẽ sanh kế tục đại tố tương ưng.
d) Khi vị La Hán muốn nhập thiền Diệt thì 9 Tố đáo đại sẽ sanh kế tục đại Tố tương ưng, trong lộ Nirodhasamaapattiviithi.
e) Khi vị La Hán muốn nhập Quả định (Phalasamaapattiviithi) thì một trong 5 tâm Tứ Quả sẽ sanh kế tục đại tố tương ưng trí (dĩ nhiên chỉ là một trong bốn), trong lộ Phalasamaapattiviithi.
Puc: Có bao nhiêu tâm lộ Paccavekkha.naviithi (phản khán) sanh kế tục Maggaviithi (tâm lộ đắc đạo)? Ðồng thời hãy phân định rõ ràng 11 tâm na cảnh theo cảnh và người.
Vis:
- Có tất cả 368 tâm lộ phản khán sanh kế tục tâm lộ đắc Ðạo: 92 lộ sanh kế tục tâm lộ chứng Sơ đạo, 92 lộ sanh kế tục tâm lộ đắc nhị đạo, đối với hai tầng Thánh Ðạo sau mỗi tầng cũng đều có 92 tâm lộ phản khán sanh kế tục.
- Bây giờ phân định 11 tâm na cảnh theo cảnh: Tâm quán sát xả thọ quả bất thiện biết được 6 cảnh dục xấu (ani.t.thaaramma.na), tức 6 cảnh dục trong dạng bất toại. Tâm Quan sát xả thọ quả thiện và 4 đại quả xả thọ biết được 6 cảnh dục (kaamadhammaaramma.na) tương đối tốt (i.t.thamajjharamma.na); tâm quan sát hỷ thọ quả thiện và 4 đại quả hỷ thọ biết được 6 cảnh Dục cực tốt.
3 tâm na cảnh vô nhân (Ahetukatadaa) sanh được 8 hạng người (trừ 4 người đạo); 4 tâm Na cảnh hữu nhân bất tương ưng trí sanh được nơi 7 người (trừ người khổ); 4 tâm Na cảnh hữu nhân tương ưng trí có thể sanh ở 5 hạng người (trừ người khổ, người lạc vô nhân và người nhị nhân).
Minh chú:
Sở dĩ nói 92 tâm lộ phản khán sanh kế tục tâm lộ chứng đạt sơ đạo là tính như sau: Trước hết lấy Ðạo, Quả, Níp-bàn cộng lại thành ra 3 (ba) rồi nhân với 4 tâm đại thiện tương ưng trí thành ra 12. Sau đó mới lấy 10 phiền não (gom chung những phiền não đã diệt và chưa diệt) đem nhân với 8 tâm đại thiện thành ra 80. Ta lại lấy 80 này cộng với 12 kể trên, thế là có được con số 92 tâm lộ. cách tính của 2 tầng thánh đạo tiếp theo cũng theo mẫu trên.
Bây giờ tính qua 92 tâm lộ phản khán sanh kế tục tâm lộ chứng đạt Tứ Quả trước hết ta lấy Ðạo, Quả, Níp-bàn cộng lại thành 3 rồi nhân với 4 đại Tố tương ưng trí để được 12 Ta lấy mười phiền não đã diệt nhân với 8 đại tố thành ra 80, lấy 80 này nhân với 12 trên, ta có được 92 tâm lộ.
Puc: Hãy kể rõ những đổng lực nào sanh một lần, hai lần, bốn lần, năm lần, sáu lần, bảy lần, tám lần trong một tâm lộ và đồng thời hãy kể tên các tâm lộ.
Vis:
a) Có tất cả 26 đổng lực chỉ sanh một lần (tức chỉ có mặt 1 sát-na) trong một tâm lộ: 9 thiện đáo đại và 9 Tố Ðáo Ðại trong Aadikammikajhaanaviithi, 4 tâm đạo trong Maggaviithi, 2 tâm thông trong Abhi~n~naaviithi, tâm Tam quả và Tứ quả trong lúc vừa xuất khỏi thiền diệt,
b) Có 6 tâm đổng lực chỉ hiện khởi 2 lần trong một tâm lộ:
- 4 tâm Thánh Quả của người độn căn trong Maggaviithi.
- Tâm thiện phi tưởng phi phi tưởng và tâm tố phi tưởng phi phi tưởng trong lúc khởi nhập thiền Diệt (Nirodhasamaapattiviithi).
c) Có 12 tâm đổng lực hỷ hiện khởi qua 3 sát-na trong một tâm lộ:
- 4 đại thiện tương ưng trí của người lợi căn trong giai đoạn Upacaarasamaadhicủa tâm lộ Maggaviithi, Aadikammikajhaana, Phalasamaa pattiviithi,jhaanasamaapattiviithi, Paadakajhaanaviithi, Abhi~n~naavithi, Nirodha samaapattiviithi.
- 4 tâm đại tố tương ưng trí của bậc La hán lợi căn trong giai đoạn Upacaarasamaadhi của Aadikammikajhaanaviithi, Phalasamaapattiviithi, Jhaanasamaapattiviithi, Paadakajhaanaviithi, Abhi~n~naavithi, Nirodhasa maapat- tiviithi.
- 4 Thánh quả của người lợi căn trong tâm lộ Maggaviithi.
d) Có 8 tâm đổng lực hỷ có mặt qua 4 sát-na trong một tâm lộ:
- 4 đại thiện tương ưng trí của người độn căn trong giai đoạn upacaarasasaadhicủa Maggaviithi, Aadikammikajhaanaviithi, phalasa maapat tiviithi, jhaanasamaapattiviithi, paadakajhaanaviithi, abhi~n~naaviithi, vaa Nirodhasamaapat tiviithi.
- 4 đại tố tương ưng trí của bậc La Hán độn căn trong giai đoạn upacaarasamàdhi ở Aadikammikajhaanaviithi phalasamaapattiviithi, jhaanasa- maapattiviithi, paadakajhaanaviithi, abhi~n~naaviithi, nirodhasamaapattiviithi. Hoặc cũng 4 tố tương ưng trí này mà khởi lên trong Paccavekkhanaaviithi của đức Thế Tôn trong lúc Ngài hóa thông một cách cấp bách như vào dịp thị hiện song thông chẳng hạn.
e) Có 29 đổng lực chỉ có mặt qua 5 sát-na trong một tâm lộ:
- 4 đại thiện tương ưng và 4 đại tố tương ưng trí trong paccavekkha.naviithi của chư Thinh văn vào những lúc hóa thông đặc biệt (visesakara.nii).
- 29 đổng lực Dục giới trong lúc cận tử (mara.naasannakaala), lúc hôn mê bất tỉnh (mucchaakaala, visa~n~niibhuutakaala).
- 20 đổng lực dục giới (trừ 8 đại tố và Tiếu Sinh) trong thời Atitaru.nakaala.
f) Có 29 đổng lực có mặt qua 6 sát-na trong một tâm lộ đó là 29 đổng lực Dục giới (Kaamajavana) trong Mahantaaramma.naviithi và vibhuutaaramma.naviithi lúc bình thường (pakativelaa).
g) 29 đổng lực Dục giới cũng có trường hợp xuất hiện qua 7 sát-na trong một tâm lộ như ở Atimahantaaramma.naviithi,mahantaaramma-.naviithi, ativibhuutaaramma.naviithi, vibhuutaaramma.naviithi lúc bình thường.
h) Có 22 đổng lực có mặt từ 8 sát-na trở lên trong một tâm lộ đó là 22 đổng lực kiên cố (trừ Magajavana và Abhi~n~naajavana) trong lúc nhập thiền định (jhaanasamaapatti viithi), Quả định (Phalasamaapatti viithi).
- Hai tâm thiện và tố sắc giới ngũ thiền trong Paadakajhaanaviithi cũng có mặt trên 8 sát-na.
Puc: Tại sao đối với các đổng lực kiên cố, nếu xuất hiện chớp nhoáng nhất thì chỉ có một sát-na, còn như xuất hiện tối đa thì vô số kể? Trong khi đại thiện và đại tố nếu xuất hiện chớp nhoáng nhất cũng phải là 3 sát-na còn thời hạn tái hiện tối đa chỉ có 7 sát-na? Và hãy cho biết tại sao các đổng lực bất thiện không thể có mặt dưới 5 sát-na trong bất cứ tâm lộ nào?
Vis: Sở dĩ các đổng lực kiên cố nếu xuất hiện chớp nhoáng chỉ có một sát-na là vì vào những trường hợp đó, với chừng ấy thời gian có mặt, chúng đã có thể làm tròn chức năng của mình mà không cần phải kéo dài thời gian lâu hơn. Chẳng hạn như trong tâm lộ chứng thiền (Aadikammikajhaana), tâm thiền chỉ cần khởi lên một sát-na cũng đủ để chấm dứt Dục chủng (Kaamagotta) và bước sang Ðáo Ðại hoặc trong tâm lộ đắc đạo (Maggaviithi) chỉ cần một sát-na Thánh Ðạo thôi, cũng đủ để vượt qua phàm chủng, tiến lên Thánh chủng. Hay trong tâm lộ hiện thông, tâm thông chỉ khởi lên một sát-na cũng đủ để vị thiền giả có thể hoàn thành nhiệm vụ trong một thời gian cực ngắn như vậy nên đôi khi chúng chỉ xuất hiện qua một sát-na trong một tâm lộ thôi.
Nhưng một khi xuất hiện trong trường hợp tối đa thì các đổng lực kiên cố sẽ khởi lên vô số sát-na, là do sức mạnh ý muốn của thiền giả hoặc Thánh nhân, các vị muốn bao nhiêu thì chúng sẽ khởi lên bấy nhiêu.
Riêng về các đổng lực đại tố và đại thiện thì sở dĩ khởi lên theo định mức tối thiểu là 3 sát-na, tối đa là 7 sát-na bởi vì chúng là đổng lực Dục giới, trường hợp duy nhất để chúng có thể hiện khởi trên định mức tối thiểu là vào tâm lộ kiên cố của người lợi căn và vì không thể bắt cảnh một cách liên tục trong thời gian dài hạn nên chúng chỉ có mặt nhiều lắm là 7 sát-na trong một tâm lộ. Ðiều đó có nghĩa là năng lực (Aanubhaava) của đổng lực Dục giới dù gì cũng yếu kém hơn đổng lực kiên cố. Như đã giống cây nhỏ thì dù có trồng gieo ở đâu đi nữa, lúc phát triển hết mức cũng không thể nào to lớn bằng những loại cây lớn khác được.
Còn đối với các đổng lực bất thiện, sở dĩ chúng không thể hiện khởi dưới 5 sát-na trong một tâm lộ vì không bao giờ các đổng lực kiên cố (appanaajavana) lại sanh kế tục đổng lực bất thiện, lại nữa chúng cũng không bao giờ có mặt trong một tâm lộ Paccavekkha.naviithi thì làm sao lại có thể xuất hiện dưới 5 sát-na:
Puc: Tại sao trong tâm lộ ngũ môn các tâm khách quan (viithicitta) lại có tới 7 thứ: Khai ý môn... , Na cảnh. Trong khi ở tâm lộ ý môn thì chỉ có 3 thôi: Khai ý môn, đổng lực, na cảnh? Hãy phân định 55 Tâm đổng lực trên Người và Cõi.
Vis: Sở dĩ ở trong lộ ngũ môn, tâm khách quan có đến 7 thứ mà tâm lộ ý môn chỉ có 3 là vì xét về khía cạnh sức mạnh. ngũ môn yếu hơn ý môn. Tức là do ngũ môn là sắc, còn ý môn là danh nên dĩ nhiên ngũ môn làm sao mạnh bằng ý môn. Lại nữa, tâm khách quan bên tâm lộ ngũ môn phải dựa vào cảnh lớn mới có thể khởi lên, tâm đổng lực bên lộ ngũ môn phải nhờ các tâm khách quan kia đón nhận, sàng lọc cảnh kỹ lưỡng mới khởi lên được. Còn các tâm khách quan (vii thicitta) bên tâm lộ ý môn thì không cần phải nương cảnh lớn nếu có nương thì chỉ nương vào tâm thôi, mà tâm thì thuộc Danh pháp, mạnh hơn Sắc pháp, cho nên các đổng lực ở đây không cần phải nhờ vã đến nhiều tâm khách quan mới có thể sanh khởi, mà chỉ cần khai ý môn hiện khởi để ly khai cảnh cũ, đón nhận cảnh mới thì đổng lực đã có thể xuất hiện được.
* Sau đây là 55 tâm đổng lực được phân số theo từng hạng người và từng cõi:
- Có 20 đổng lực có thể sanh nơi 4 đọa xứ (Apaayabhuumi) là 12 tâm bất thiện, 8 tâm đại thiện.
- Cả 55 tâm đổng lực đều có thể hiện khởi ở 7 cõi dục giới thiện thú (Kaamasugatibhuumi).
- Có 53 đổng lực có thể hiện khởi ở mười cõi Phạm thiên hữu sắc (trừ năm tịnh cư và vô tưởng): 10 bất thiện (trừ 2 tâm sân), tâm tiếu sinh, 8 đại thiện, 8 đại tố, 9 thiện đáo đại, 9 tố đáo đại, 8 đổng lực siêu thế (Lokuttarajavana).
- Có 43 đổng lực có thể hiện khởi ở năm cõi Tịnh cư: 4 tham bất tương ưng kiến, si phóng dật, tâm sinh tiếu, 8 đại thiện, 8 đại tố, 9 thiện đáo đại, 9 tố đáo đại 3 đổng lực Siêu Thế là A Na Hàm quả; La-Hán Ðạo và La Hán Quả.
- Có 41 đổng lực có thể sanh ở cõi hư không vô biên xứ là 10 bất thiện tâm (trừ 2 sân), 8 đại thiện, 8 đại tố, 4 thiện vô sắc, 4 tố vô sắc, 7 đổng lực siêu thế (trừ Sơ đạo).
- Có 39 đổng lực có thể sanh ở cõi thức vô Biên Xứ: 10 bất thiện (trừ 2 sân), 8 đại thiện, 8 đại tố, 6 đổng lực vô sắc (trừ thiện và tố Hư không vô biên xứ), 7 đổng lực siêu thế (trừ Sơ Ðạo).
- Có 37 đổng lực có thể sanh ở cõi vô sở hữu xứ là 10 bất thiện (trừ 2 sân), 8 đại thiện, 8 đại tố, 4 đổng lực vô sắc (thiện và tố vô sở hữu xứ, Thiện và Tố Phi tưởng phi phi tưởng), 7 đổng lực siêu thế (trừ Sơ đạo).
- Có 35 đổng lực có thể sanh ở cõi phi tưởng phi phi tưởng : 10 bất thiện (trừ 2 sân), 8 đại thiện, 8 đại tố, thiện Phi tưởng phi phi tưởng, Tố Phi tưởng phi phi tưởng, 7 đổng lực siêu thế (trừ sơ đạo).
* 55 đổng lực phân bố theo 12 hạng người:
1) Người khổ, người lạc vô nhân, người nhị nhân có được 20 đổng lực: 12 bất thiện, 8 đại thiện.

2) Người tam nhân có được 29 đổng lực: 12 bất thiện, 8 đại thiện, 9 thiện đáo đại.

3) Bậc dự-lưu quả có được 25 đổng lực: 7 bất thiện (trừ 4 tham tương ưng kiến và si hoài nghi), 8 đại thiện, 9 thiện đáo đại, tâm Sơ quả.
4) Bậc Nhất lai quả có được 25 đổng lực: 7 bất thiện (trừ 4 tham hợp tà kiến và si hoài nghi), 8 đại thiện, 9 thiện đáo đại, tâm sơ quả nhất Lai.

5) Bậc Bất lai quả có được 23 đổng lực: 4 tham bất tương ưng kiến, si phóng dật, 8 đại thiện, 9 thiện đáo đại, tâm tam quả.

6) Bậc La Hán Quả có được 19 đổng lực là tiếu sinh, 8 đại tố, 9 tố đáo đại, tâm Tứ Quả.
7) Mỗi bậc thánh đạo đều chỉ có một tâm đổng lực duy nhất là tâm Ðạo tương ứng.
Puc: Có bao nhiêu mara.naasannaviithi thuộc ngũ môn và ý môn?
Vis:
a) Có cả thảy 20 tâm lộ Pa~ncadvaaramara.naasannaviithi cakkhu- dvaaramara.naasannaviithi có 4 trường hợp:
- Ðổng lực, na cảnh, hữu phần, tử tâm.
- Ðổng lực, na cảnh, tử tâm.
- Ðổng lực, hữu phần, tử tâm.
- Ðổng lực, tử tâm.
4 tâm lộ ngũ môn còn lại mỗi cái cũng có 4 trường hợp như vậy, nên ta nói: Có tất cả 20 tâm lộ cận tử ngũ môn (5 tâm lộ ngũ môn nhân với 4 trường hợp).
Chú ý: Bậc Tam Quả và Tứ Quả không bao giờ mệnh chung bằng tâm lộ cận tử ngũ môn.
b) Manodvaaramara.naa sannaviithi được phân ra hai trường hợp lớn:
- Của phàm phu và Thánh hữu học.
- Của bậc A La Hán.


TÂM LỘ
TÂM LỘ CẬN TỬ

* Tâm lộ cận tử của phàm phu và Thánh hữu học lại được chia ra 4 trường hợp nhỏ:
- Ðổng lực, na cảnh, hữu phần, tử tâm.
- Ðổng lực, na cảnh, tử tâm.
- Ðổng lực, hữu phần, tử tâm.
- Ðổng lực, tử tâm.
Chú ý:
Trong tâm lộ cận tử ngũ môn và tâm lộ cận tử ý môn đúng ra cũng có trường hợp cũng hữu phần khách, nhưng không cần thiết phải kể ra ở đây.
* Tâm lộ cận tử ý môn của bậc La Hán được chia thành hai trường hợp lớn: Tâm viên tịch sanh kế tục một loạt đổng lực dục giới và tâm viên tịch sanh kế tục một loạt đổng lực kiên cố. Trường hợp thứ nhất gọi là tâm lộ viên tịch (parinibbaanaviithi) thông thường, trường hợp thứ hai được gọi là tâm lộ viên tịch đặc biệt. Có tất cả 4 tâm lộ viên tịch thông thường:
- Ðổng lực, na cảnh, hữu phần, tử tâm.
- Ðổng lực, na cảnh, tử tâm.
- Ðổng lực, hữu phần, tử tâm.
- Ðổng lực, tử tâm.
Có cả thảy 4 tâm lộ viên tịch đặc biệt :
Jhaanasamanantaraviithi (lộ viên tịch liên thiền).
Paccavekkhanasamanantaraviithi (lộ viên tịch liên phản khán).
Abhi~n~naasamanantaraviithi (lộ viên tịch liên thông).
Jiivitasamasiisiiviithi (lộ viên tịch chí mạng).

Minh giải:

1) Có tất cả 36 tâm lộ viên tịch liên thiền: Muốn có được con số 36 đó, trước hết ta phải lấy 2 trường hợp viên tịch sau đây:
-Tâm thiền, tâm tử.
- Tâm thiền hữu phần, tâm tử.
Ðem nhân với 9 tố đáo đại thành ra 18, ta lại lấy 18 này nhân với hai hạng độn căn lợi căn thì sẽ có ngay 36 tâm lộ viên tịch liên thiền.
2) Tâm lộ viên tịch liên phản khán có cả thảy 48, và tất cả cũng dựa trên hai cách viên tịch:
- Ðổng lực, tử.
- Ðổng lực, hữu phần, tử tâm.
Muốn biết Sở-do của con số 48 trên đây; trước hết ta phải hiểu hai cách viên tịch vừa nêu luôn khởi lên trong lúc phản khán chi thiền, do đó:
- Có 10 tâm lộ viên tịch liên phản khán sanh kế tục sơ thiền Tố.
- Có 8 tâm lộ viên tịch liên phản khán sanh kế tục nhị thiền Tố.
- Có 6 tâm lộ viên tịch liên phản khán sanh kế tục tam thiền Tố.
- Có 4 tâm lộ viên tịch liên phản khán sanh kế tục tứ thiền Tố.
- Có 20 tâm lộ viên tịch liên phản khán sanh kế tục ngũ thiền Tố.
Cộng tất cả lại, ta có được 48 tâm lộ viên tịch liên phản khán.
3) Chỉ có 4 tâm lộ viên tịch liên thông thôi, tức là ta lấy hai hạng độn căn, lợi căn đem nhân với 02 cách viên tịch sau đây:
- Thông Tố, Tử tâm.
- Thông Tố, Hữu phần, tử tâm.
4) Tâm lộ viên tịch chí mạng đó có tất cả 22, được phân thành 4 trường hợp:
- Quán xét Ðạo Quả, Níp-bàn rồi viên tịch theo mô thức Ðổng lực nối liền tâm tử".
- Quán xét Ðạo Quả, Níp-bàn rồi hữu phần mô thức "Ðổng lực -hữu phần- tử".
Hai mô thức viên tịch này chỉ có 2 tâm lộ thôi.
- Quán xét 10 phiền não đã diệt rồi viên tịch, đây là mô thức "đổng lực nối liền tâm tử". Mô thức này có 10 tâm lộ.
- Quán xét 10 phiền não đã diệt rồi hữu phần xen vào trước khi tâm tử khởi lên. Ðây là mô thức "đổng lực - Ðổng lực - hữu phần - Tử". Mô thức này cũng có 10 tâm lộ.
Trong 22 tâm lộ viên tịch chí mạng này, 2 tâm lộ đầu chắc chắn phải khởi lên nơi một vị đắc đạo chí mạng (Jiivitasamasiisiipuggalaa), dĩ nhiên, chỉ một trong hai thôi. Còn 20 tâm lộ sau thì bất định.
Vậy tổng kê lại, có tất cả 138 tâm lộ cận tử:
- 20 tâm lộ cận tử ngũ môn.
- 4 tâm lộ cận tử ý môn của phàm nhân và 3 thánh hữu học.
- 4 tâm lộ viên tịch thông thường
-110 tâm lộ viên tịch đặc biệt.
-ooOoo-

VẤN ĐÁP

Puc: Có bao giờ đổng lực Dục giới và đổng lực kiên cố lại sanh chung trong một tâm lộ hay không? Trường hợp nào? Và trong lúc sanh chung trong một tâm lộ như vậy, cảnh sở tri của 2 thức đổng lực có khác nhau hay không? Hãy giải rõ.

Vis: Ðổng lực dục giới và đổng lực kiên cố sanh chung nhau các tâm lộ sau đây: Aadikammikajhaanaviithi, jhaanasamaapattiviithi, paadaka- jhaanaviithi, abhi~n~naaviithi, phalasamaapattiviithi, nirodhasamaapattiviithi. Và trong những lúc sanh chung 1 tâm lộ như vậy, đôi khi cảnh sở tri của hai thứ đổng lực khác nhau, đôi khi cũng giống nhau, hoặc có lúc cảnh sở tri của hai thứ đổng lực vừa khác nhau mà cũng vừa giống nhau dù chỉ trong một tâm lộ. Sau đây sẽ chứng minh từng trường hợp:

1) Tương ngộ nhưng cảnh sở tri bất đồng:

Tuy cùng gặp nhau trong một tâm lộ phalasamaapattiviithi nhưng các đổng lực dục giới thì biết cảnh danh sắc hữu vi, còn các đổng lực kiên cố thì lại biết cảnh vô vi pháp.
2) Tương ngộ mà cảnh sở tri cũng tương đồng:
Trong các tâm lộ sau đây, đổng lực dục giới và đổng lực kiên cố đều cùng biết một thứ cảnh như nhau, về cả chế định lẫn chân đế: paadakajhaanaviithi, abhi~n~naaviithi, nirodhasamaapattiviithi.

3) Tương ngộ mà cảnh sở tri vừa bất đồng cũng vừa tương đồng:
Trong tâm lộ đắc đạo (Maggaviithi) các tâm: chuẩn bị, cận hành, thuận thứ thì biết cảnh hửu vi pháp; còn chuyển tộc, dũ tịnh, tâm đạo, tâm quả thì biết cảnh vô vi pháp.
Chú ý: Tâm tam quả, tứ quả mà xuất hiện sau khi vừa xả thiền diệt tuy có cảnh sở tri khác với các tâm bất thiện, thiện hiệp thế, đổng lực tố nhưng điều đó không có can hệ gì bởi lúc ấy là thời điểm mới vừa xuất khỏi thiền diệt.

Puc: Các ngài A Xà Lê uyên thâm về tâm pháp bảo rằng: "Theo qui luật, tâm khách quan (vii thicitta) phải nhờ khai ý môn tiến dẫn cảnh sở-tri đến, chúng mới có thể sanh lên để tri nhận bằng không thì chẳng sanh lên được". Ðiều nầy có đúng với mọi trường hợp hay không? Hãy giải thích. Ðồng thời, hãy dịch nghĩa câu kệ sau đây:

Niraavajja.m katha.m citta.m.
Hoti neta.m hi sammatta.m.
Niyamo na vinaavajjaa.
Nirodhaa phaladassanaa.

Vis: Câu nói trên của chư vị A Xà Lê không phải đem áp dụng vào chỗ nào cũng được, nó chỉ đúng trong trường hợp các lộ ngũ môn và kaamavajanamanodvaaraviithi (lộ ý đổng lực dục giới) mà không có hữu phần khách. Khi nói như vậy, các ngài muốn ám chỉ hai trường hợp đó thôi. Bởi vì đối với các tâm lộ ngũ môn, và tâm lộ ý môn đổng lực dục giới có hữu phần khách tâm khách quan tự động khởi lên mà chẳng cần tới sự giúp đỡ của khai ý môn. Những tâm sau đây cũng thế, cũng không cần tới khai ý môn: Chuyễn tộc và Dũ tịnh trong lộ đắc đạo; tâm quả trong tâm lộ nhập Quả định; Tam Quả và Tứ quả trong thời điểm vừa xuất khởi thiền diệt.
Sau đây là lời dịch cho câu kệ Paali trên: "Các tâm khách quan có thể nào xuất hiện mà không cần tới khai ý môn hay không? Có phải các Ngài A Xà Lê tiền bối đã chẳng nói gì tới trường hợp tâm khách quan bất cần khi ý môn mà vẫn có thể sanh lên? Ta phải nói rằng không có một cơ sở nào để xác quyết như vậy cả bởi điều hiển nhiên mà ai cũng thấy đó là trường hợp 2 tâm Tam Quả Tứ Quả xuất hiện khi vừa xuất thiền diệt chúng có cần tới khai ý môn đâu nào".

Puc: Hãy dịch nghĩa 2 bài kệ Paali sau đây:

* Kaame javanasattaana.m
Balaana.m niyame satii
Vibhuute timahante ca
Tadaaramma.namiirita.m
* Sattakkhattu.m parittaani
Maggabhi~n~naa saki.m mataa
Avasesaani labhati
Javanaani bahuunipi.

Vis: ở câu kệ thứ nhất ta phải hiểu rằng một khi hội đủ ba tiêu chuẩn liên hệ Kaamabhuumi; Ðổng lực, chúng sanh và cảnh thì cảnh rất rõ, cảnh rất lớn và na cảnh mới xuất hiện được.
Ở câu kệ thứ hai ta phải hiểu rằng Ðổng lực Dục giới sanh nhiều lắm là 7 sát-na, tâm đạo và tâm thông chỉ có thể xuất hiện qua một sát- na; các đổng lực còn lại, là tâm thiền và tâm quả siêu thế thì có thể hiện khởi qua thật nhiều sát-na.

Puc: Có cả thảy bao nhiêu tâm khách quan (viithicitta) và tâm chủ quan (viithimuttacitta)? Hãy kể rõ và phân định chúng theo Người, Cõi !

Vis: Có tất cả 80 tâm khách quan: 54 tâm Dục giới, 9 thiện đáo đại, 9 tố đáo đại, 8 siêu thế. Còn tâm chủ quan thì chỉ có 19 thôi: 2 tâm Suy Ðạc xả thọ, 8 tâm đại quả, 9 tâm quả đáo đại. Không có một thứ tâm nào nữa ngoài ra 2 thứ tâm này và điều nên nhớ là 2 tâm Quan-sát (suy đạc) xả thọ cùng 8 tâm đại quả vừa được kể là tâm khách quan mà cũng vừa được xem là tâm chủ quan.
* Nói trên cõi thì ở 11 cõi Dục giới có đủ cả 80 tâm khách quan. Ở 15 cõi sắc giới (trừ Vô tưởng) có được 64 tâm khách quan là 38 tâm dục giới (trừ 2 sân, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, 8 đại quả), 9 thiện đáo đại, 9 tố đáo đại và 8 tâm siêu thế. ở 4 cõi vô sắc có được 42 tâm khách quan là 10 tâm bất thiện (trừ 2 sân), khai ý môn, 8 đại thiện, 8 đạïi tố, 4 thiện vô sắc, 4 tố vô sắc và 7 tâm siêu thế (trừ sơ đạo).
* 80 tâm khách quan phân bố theo 12 hạng người:
- Người khổ có được 37 tâm khách quan là 12 tâm bất thiện, 17 tâm vô nhân (trừ tiếu sinh), và 8 tâm Ðại thiện.
- Người lạc vô nhân và người nhị nhân có được 41 tâm khách quan: 12 tâm bất thiện, 17 tâm vô nhân (trừ Tiếu sinh) 8 đại thiện và 4 tâm đại quả bất tương ưng trí.
- Người tam nhân có được 54 tâm khách quan: 12 tâm bất thiện, 17 tâm vô nhân (trừ Tiếu sinh), 8 tâm đại thiện, 8 tâm đại quả, 9 thiện đáo đại.
- Bậc Dự Lưu và bậc Nhất lai có được 50 tâm khách quan; 7 tâm bất thiện (trừ 4 tham tương ưng tà kiến và si hoài nghi), 17 tâm vô nhân (trừ Tiếu sinh), 8 đại thiện, 8 đại quả, 9 thiện đáo đại, tâm sơ quả (nếu là Dự lưu), tâm nhị quả (nếu là Nhất lai).
- Bậc Bất lai có được 48 tâm khách quan: 4 tham ly tà kiến, si phóng dật, 17 tâm vô nhân (trừ Tiếu sinh), 8 đại thiện, 8 đại quả, 9 thiện đáo đại, tâm tam quả.
- Bậc La Hán có được 44 tâm khách quan là 18 tâm vô nhân, 8 đại tố, 8 đại quả, 9 tố đáo đại, tâm tứ quả.
- 4 người đạo, mỗi người chỉ có một tâm khách quan duy nhất là tâm đạo tương ứng với mỗi tầng thánh vức.
Bây giờ nói qua tâm chủ quan, có tất cả 19 tâm và chúng phân bố theo NGƯỜI, CÕI như sau: Trước hết nói qua NGƯỜI:
- Người khổ có được một tâm chủ quan duy nhất đó là tâm Suy đạc xả thọ quả bất thiện.
- Người lạc vô nhân có được một tâm chủ quan duy nhất đó là tâm suy đạc xả thọ quả thiện.
- Người nhị nhân có được 4 tâm chủ quan là 4 tâm đại quả ly trí, nhưng nên nhớ là mỗi người chỉ có thể có một trong bốn tâm đó thôi.
- Người tam nhân và 4 thánh quả trong cõi dục có được 4 tâm chủ quan, tức là một trong 4 tâm đại quả tương ưng trí.
- Người tam nhân và 4 người quả ở 15 cõi hữu tưởng Sắc giới có được 5 tâm chủ quan, tức là mỗi người có được một trong 5 tâm quả Sắc giới.
- Người tam nhân và 4 quả ở cõi Vô Sắc giới có được 4 tâm chủ quan, tức là mỗi người cũng chỉ có 1 trong 4 tâm quả Vô Sắc Giới.
* Tâm chủ quan phân bố theo các cõi:
- 4 đoạ xứ (Abaayabhuumi) chỉ có được một tâm chủ quan là tâm Suy Ðạc thọ xả quả thiện.
- Cõi người và cõi Tứ thiên Vương có được 9 tâm chủ quan là Suy Ðạc xả bất thiện và 8 đại quả.
- Năm tầng Dục thiên trên có được 8 tâm chủ quan là 8 đại quả.
- Tầng sơ thiền chỉ có 1 tâm chủ quan: Tâm quả Sơ thiền.
- Tầng nhị thiền có được 2 tâm chủ quan là tâm quả nhị thiền, tâm quả tam thiền.
- Tầng tam thiền chỉ có 1 tâm chủ quan duy nhất là tâm quả tứ thiền.
- Tầng tứ thiền (trừ vô tưởng) chỉ có một tâm chủ quan duy nhất là tâm quả ngũ thiền sắc giới.
- Ở 4 cõi Vô sắc, mỗi cõi cũng chỉ có 1 tâm chủ quan tương ứng tầng thiền của mình.

Puc: Hãy dịch nghĩa 2 câu kệ dưới đây:

* Asekkhaana.m catucattaa.liise
Sekhaanamuddise cha
Pa~n~naasaavassesaana.m
Catupa~n~naasa sambhavaa
* Asiiti viithicittaani
Kaame ruupe yathaaraham
Catusa.t.thi tathaaruupe
Dvecattaa.liisa labbhare .

Vis:
* Bậc Thánh vô học (A la hán) có nhiều lắm là 44 tâm khách quan, chư thánh hữu học có tối đa là 56 tâm khách quan.
* Ở 11 cõi Dục Giới, có được 80 tâm khách quan dĩ nhiên là phải được phân bố tương ứng với từng hạng người.
* Ở 15 cõi sắc giới hữu tưởng có cả thảy 64 tâm khách quan, dĩ nhiên cũng được phân bố tương ứng.
* Ở 4 cõi vô sắc giới có tất cả 42 tâm khách quan và cũng được phân bố tương ứng.

Puc: Hãy kể rõ tâm nào có thể sanh khởi ở các hạng người sau đây:
- Người Khổ, người Lạc Vô Nhân, người Nhị Nhân, người Tam Nhân ở cõi Dục Giới không có đắc thiền, người Tam Nhân ở cõi Dục Giới và có chứng thiền, người Tam Nhân ở cõi sắc giới không có thiền, người Tam Nhân ở cõi Sắc Giới và có chứng thiền, người Tam Nhân ở cõi Vô Sắc không có thiền, người Tam Nhân ở cõi Vô sắc và có chứng thiền.

Vis:
1) Người khổ có được 37 tâm: 12 tâm Bất Thiện, 17 tâm vô nhân (trừ Tiếu sinh), 8 đại thiện.
2) Người lạc vô nhân và người nhị nhân có được 41 tâm là 12 bất thiện, 17 vô nhân (trừ Tiếu sinh), 8 đại thiện, 4 đại quả ly trí.
3) Người Tam Nhân vô thiền ở cõi Dục Giới có được 45 tâm là 45 tâm Dục giới trừ ra Tiếu Sinh và 8 đại tố.
4) Người Tam Nhân hữu thiền ở cõi Dục giới có được 45 tâm là 45 tâm Dục giới (ngoài ra Tiếu sinh cùng 8 đại tố), và 9 thiện đáo đại.
5) Người Tam Nhân vô thiền ở cõi sắc giới có được 30 tâm là: 10 bất thiện (trừ 2 sân), 11 vô nhân (trừ tỷ thức, thiệt thức, thân thức, Tiếu sinh), 8 đại thiện, và 1 tâm quả sắc giới nào đó tương ứng với cõi đang ở.
6) Người Tam Nhân hữu phiền ở cõi sắc giới có được 39 tâm là 30 tâm căn bản và 9 thiện đáo đại.
7) Người Tam Nhân vô thiền ở cõi vô sắc giới có được 20 tâm là 10 bất thiện (trừ 2 sân), khai ý môn, 8 đại thiện, một tâm quả vô sắc giới nào đó tương ứng.
8) Người Tam Nhân hữu thiền ở cõi vô sắc giới có được 24 tâm nếu tính tổng quát; nếu tính chính xác thì chỉ có 21 tâm, tức 20 tâm căn bản cộng với 1 tâm thiền đổng lực nào đó tương ứng.

Puc: Có bao nhiêu tâm lộ viên tịch bằng đổng lực dục giới? Hãy giải rõ 4 trường hợp viên tịch sau đây:
Jhaanasamanantaraviithi, paccavekkha.na samanantaraviithi, abhi~n~naasamanantaraviithi, Jiivitasamasii- siiviithi.

Vis: Có tất cả 4 tâm lộ viên tịch bằng đổng lực dục giới:
- Ðổng lực, na cảnh, hữu phần, tử tâm.
- Ðổng lực, na cảnh, tử tâm.
- Ðổng lực, hữu phần, tử tâm.
- Ðổng lực, tử tâm.
Sau đây sẽ giải rõ 4 trường hợp viên tịch đặc biệt:

A- JHAANASAMANANTARAVIITHI

Nếu muốn viên tịch bằng cách này thì trước hết vị La hán phải nhập thiền định (Jhaanasamaapattiviithi) để làm tịnh chỉ các khổ thọ trong cơ thể tâm lộ nhập thiền định này diễn ra như sau: Rúng động, Dứt dòng, Khai ý môn, Chuẩn bị, Cận hành, Thuận thứ, Chuyển tộc (4 sát-na này do 1 đại tố nào đó lần lượt đóng vai), sau chuyển tộc thì một trong 9 tố đáo đại sẽ khởi lên bắt cảnh án xứ (như Kasina chẳng hạn). Tâm tố này sẽ xuất hiện qua ít hay nhiều sát-na tùy theo ý muốn của đương sự. Tâm tử sẽ kế tục sát-na đổng lực cuối cùng, không qua một hữu phần trung gian nào cả.

B- ABHI~N~NAASAMANANTARAVIITHI

Muốn hóa hiện thần lực trước khi viên tịch thì vị La hán phải nhập thiền cơ rồi xuất ra, chú nguyện thứ phép lạ mà mình muốn thị hiện rồi lại nhập vào thiền cơ bận nhì. Khi vừa xuất khỏi thiền cơ thì tâm lộ hiện thông (abhinnaaviithi) lập tức khởi lên, nó diễn tiến như sau: Rúng động, Dứt dòng, Khai ý môn, Chuẩn bị, Cận hành, Thuận thứ, Chuyển tộc, thông tố (1 sát-na duy nhất). Khi tâm thông tố hiện khởi thì phép lạ nào mình đã ước nguyện sẽ hiển nhiên tức khắc. Sau khi tâm thông tố vừa diệt xong thì tâm tử sẽ lập tức kế tục hoặc là có một hữu phần xen vào giữa Thông tố và tâm tử. Vậy trong trường hợp viên tịch liên thông này có đến hai mô thức viên tịch: Ðổng lực nối liền tâm tử hoặc giữa Ðổng lực (thông tố) và tâm tử có hữu phần xen vào.

C- PACCAVEKKHANASAMANANTARAVIITHI.

Nếu muốn viên tịch bằng cách này thì trước hết vị La Hán phải nhập thiền diệt (Jhaanasamaapatti) để làm tịnh chỉ các cảm thọ đau đớn trong thân thể Tâm lộ nhập thiền định này diễn tiến như sau: Rúng động, Dứt dòng, Khai ý môn, Chuẩn bị, Cận hành, Thuận thứ, Chuyển tộc [*] thiền tố giai đoạn này do 1 trong 9 tố đáo đại đảm nhiệm, tâm thiền này cứ sinh diệt liên tục, ít nhiều tùy theo ý muốn của đương sự. Vừa chấm dứt tâm lộ nhập thiền định xong thì tâm lộ phản khán lập tức khởi lên để quán xét chi thiền, tâm lộ phản khán này sẽ tái hiện hằng trăm hằng ngaan bận một cách thích ứng rồi diệt đi, tâm tử sẽ sanh kế tục đổng lực phản khán (paccayakkha.najavana) cuối cùng hoặc là có hữu phần xen vào giữa.

[*] Gotrabhuu có thể dịch là Việt tánh. (Giác Nguyên)

D- JIIVITASAMASIISIIVITHII

Ðối với vị A Na Hàm tranh thủ chứng đạt Tứ Quả trong giờ phút lâm chung tâm lộ đắc đạo lúc ấy được gọi là tâm lộ đắc đạo chí mạng, diễn tiến như sau: Rúng động, Dứt dòng, Khai ý môn, Chuẩn bị, Cận hành, Thuận thứ, Dũ tịnh (4 sát-na này do một đại thiện tương ứng trí nào đó lần lượt đóng vai), Kế tục Dũ tịnh là một sát-na Tứ Ðạo, rồi 2 sát-na Tứ quả. Khi tâm Tứ Quả thứ hai vừa diệt xong thì tâm lộ phản khán liền khởi lên để quan sát Ðạo Quả, Níp-bàn cùng phiền não đã diệt Tâm lộ phản khán này cứ tái hiện hàng trăm hàng ngàn lần một cách tương ứng. Lúc tâm đổng lực phản khán paccavekkha.nasamanantaraviithi javana) cuối cùng vừa diệt mất thì tâm tử sanh kế tục tức khắc hoặc là sau khi có hữu phần xen vào, tâm tử, mới sanh lên.
Ta nên nhớ, không phải chỉ có vị A Na Hàm mới có tâm lộ đắc đạo chí mạng mà đối với phàm tam nhân và bậc dự lưu cũng có tâm lộ dắc đạo chí mạng. Trong trường hợp đắc đạo chí mạng của phàm tam nhân thì quy trình đó được diễn ra với 4 tâm lộ đắc đạo liên tục cùng với mỗi tâm lộ phản khán tương ứng, sau đó tâm tử mới khởi lên. Còn trong trường hợp của vị Dự lưu thì sau khi trải qua 3 tâm lộ đắc đạo bậc cao cùng 3 loại tâm lộ phản khán tương ưng tâm tử sẽ xuất hiện, Còn như đương sự đắc đạo chí mạng là một vị Nhất Lai thì chỉ trải qua 2 tâm lộ đắc đạo bậc cao cùng 2 loại lộ tâm phản khán tương ứng.

Puc: Hãy giải nghĩa 4 trường hợp viên tịch đặc biệt hay còn gọi là những trường hợp viên tịch bằng đổng lực kiên cố. Hãy cho biết 4 trường hợp viên tịch đó có thể xảy ra ở cõi nào? Và tại sao cảnh sở tri của các tâm lộ viên tịch đó lại không là Kammaaramma.na, Kammanimittaaram- ma.na, Gatinimittaaramma.na?

Vis: Trước hết ta phải hiểu rõ ý nghĩa của 4 tâm lộ viên tịch đặc biệt:
1) Jhaanasamanantaraviithi là tâm lộ viên tịch nối liền một cách trực tiếp với lộ nhập thiền, mà không có một tâm khách quan nào khác xen vào giữa.
2) Paccavekkha.nasamanantataraviithi là tâm lộ viên tịch nối liền với các đổng lực phản khán chi thiền mà không bị một tâm khách quan nào khác xen vào giữa.
3) Abhi~n~naasamanantaraviithi là tâm lộ viên tịch nối liền trực tiếp với tâm thông mà không bị một tâm khách quan nào xen vào giữa.
Ðể nắm rõ ý nghĩa của thuật ngữ Jiivitasamasiisii, ta phải hiểu rằng ngũ uẩn này có 2 cái đầu (siisa):
1) Va.t.tasiisa: chỉ có sở hữu Mạng Quyền và sắc mạng quyền, chúng là đầu của luân hồi khổ.
2) Kilesasiisa: Chỉ cho sở hữu Si, nó là cái đầu của tất cả phiền não.
Khi nào sở hữu mạng quyền và sắc Mạng quyền chưa biến diệt hẳn thì khi đó các chúng sanh vẫn chưa được gọi là mệnh chung, cho đến khi nào đó cả 2 thứ mạng quyền này thật sự không còn nữa thì khi ấy các chúng sanh được xem như đã chết. Do đó danh mạng quyền và sắc mạng quyền được gọi là Vattasiisa: Cái đầu của khổ luân hồi".
Ngày nào sở hữu si chưa diệt sự vắng mặt thì ngày đó các phiền não vẫn chưa được xem là đã tuyệt căn. mãi cho tới khi nào sở hữu si được đoạn trừ hẳn hoi thì lúc đó mới có thể nói rằng các phiền não đã hoàn toàn vỡ mầm.
Người đắc đạo chí mạng (Jiivitasamasii) là người biết tranh thủ giây phút ngắn ngủi trong thời điểm hấp hối của mình để triển khai tâm lý yểm ly tam giới tu tập 4 niệm xứ là chứng đạt lần lượt 4 tầng thánh quả trong phút giây chớp nhoáng ấy để va.t.tasiisa và kilesasiisa cùng lúc bể tan khi tâm lộ chứng đắc Tứ quả khởi lên vừa xong. Như các Ngài đã giải tự thuật ngữ Jiivitasamasiisii như sau:

Jiivitena sama.m avijjaasiisa.m assaati jiivitasamasiisii (người đắc đạo chí mạng là người chấm dứt vô minh thủ cùng lúc với 2 thứ mạng quyền).
Ta nên biết rằng tuy nói là phiền não cùng 2 thứ mạng quyền chấm dứt đồng lượt nhưng không phải dựa vào đó mà hiểu rằng chúng đồng diệt trong một sát-na tâm bởi vì kế tục tâm lộ chứng đắc tứ đạo còn có tâm lộ phản khán, mà tâm lộ này thì tái hiện rất nhiều lần, sau đó mới đến tâm tử, thời điểm chấm dứt của 2 thứ mạng quyền. Phân tích cặn kẽ như thế thì rõ ràng là hai "cái đầu" không cùng diệt mất trong một lúc như danh từ đã gọi (Jiivitasamasiisii) nhưng nếu nói trên phương diện thời gian thông thường (vekaa) không y cứ vào thời gian "chơn đế" (khana hay sát-na) thì gọi thế cũng đúng không có gì sai cả.
4 tâm lộ viên tịch đặc biệt có thể xảy ra ở các cõi sau đây:
- Tâm lộ viên tịch liên thiền, liên phản khán sanh được ở 7 cõi vui Dục giới, 15 cõi sắc giới (trừ cõi vô tưởng) 4 cõi vô sắc.
- Tâm lộ viên tịch liên thông có thể sanh được ở 7 cõi vui dục giới và 15 cõi sắc giới (trừ cõi vô tưởng).
- Tâm lộ đắc đạo chí mạng có thể sanh khởi ở 7 cõi vui dục giới.
Sở dĩ cảnh sở tri của 4 tâm lộ viên tịch này không là một trong 3 cảnh chủ quan vì lý do là trong tâm của vị La Hán không còn cái gì là thiện, hay bất thiện nữa.

CHÚ Ý: Tâm lộ viên tịch liên thông không thể sinh khởi ở 4 cõi vô sắc là do chư Phạm Thiên ở đó không có tâm ngũ thiền sắc giới, phương tiện cơ bản cho việc hóa thông và sở dĩ tâm lộ đắc đạo chí mạng không thể có ở các tầng Phạm Thiên giới là vì trên đó không có cái chết đau đớn, thậm chí không có sự buồn đau trong tư tưởng (cetasikadukkhavedanaa).

Puc: Từ abhi~n~naa (Thông hay thắng trí) trong liên từ Abhi~n~naasama nantaraviithi ám chỉ cho loại thần thông nào?
Hãy cho biết đối với hài nhi trong bụng mẹ có được bao nhiêu tâm lộ? Hãy kể rõ.

Vis: Chữ Thông trong thuật ngữ "tâm lộ viên tịch liên thông" ám chỉ cho biến hóa thông (iddhividha).
Hài nhi trong bụng mẹ có thể có được 4 tâm lộ sau đây: tâm lộ nhĩ môn, tâm lộ thiệt môn, tâm lộ thân môn và tâm lộ ý môn. Sở dĩ không có 2 tâm lộ nhãn môn và tỷ môn là vì đứa hài nhi lúc này chưa thể mở mắt và cũng chưa biết thở bằng mũi.

Puc: Người nào cõi nào mới có thể nhập thiền diệt? Trong lúc đang nhập như vậy có thể vì một tai nạn nào mà mệnh chung hay không?

Vis: Chỉ có bậc Tam quả và Tứ quả đã viên đắc toàn bộ các tầng thiền đáo đại (có cả thảy 9 tầng) mới có thể nhập thiền diệt, và điều bắt buộc là 2 bậc thành này phải là người ở 7 cõi vui dục giới cùng 15 cõi sắc giới (trừ vô tưởng thiên). Trong lúc đang nhập thiền diệt không một tai nạn rủi ro nào có thể xảy đến làm chết đương sự, đó là nhờ năng lực của Samaadhivipphaaraa-iddhi (uy lực đặc biệt trong lúc đang nhập thiền diệt).

Puc: Hãy giải thích 4 tiên quyết sự trước khi nhập thiền diệt: Naanaabadhaavikopana, sanghapatimaanana, satthupakkosana, satthupakko- sana, addhaanapariccheda. Ðồng thời hãy cho biết: Ðiều nào trong bốn điều trên là quan trọng nhất đối với một vị nhập thiền diệt ở cõi Dục giới và cõi sắc giới?

Vis: Ta phải hiểu 4 tiên quyết sự ấy như sau:
1) Naanaabaddha-avikopana: Việc chú nguyện cho các vật dụng (parikkhaara) ngoại thân của mình không vì một rủi ro nào mà hư hao, mất mát.
2) Sanghapatimaanana: Việc chú nguyện cho tự xuất khỏi thiền diệt khi chư Tăng muốn triệu tập.
3) Satthupakkosana: Việc chú nguyện cho tự xuất khỏi thiền Diệt khi bậc Ðạo sư muốn gặp mặt.
4) Addhaanapariccheda: Ấn định thời giờ, nghĩa là muốn nhập thiền Diệt trước hết phải quán xét coi tuổi thọ của mình có thể kéo dài đến bao lâu nữa, tức còn sống được tới đâu.
Ðối với đương sự nhập thiền diệt ở cõi Dục giới thì điều thứ tư này là quan trọng nhất, không thể bỏ qua. Còn đối với ba điều trên thì có thể không liên quan đến cũng được. Bởi vì cho dù đương sự có chú nguyện hay không các vật dụng ngoại thân mang trong mình cũng không thể vì một lý do gì mà hư hao, mất mát. Cho dù đương sự có vô tâm đến mấy đi nữa, một khi Ðức Phật hay Chư Tăng muốn gặp mặt thì cứ cử một vị sứ giả đến đứng vừa tầm nghe của đương sự rồi bảo rằng: Thưa Tôn Giả! Chư Tăng (hay bậc Ðạo Sư) muốn gặp mặt Ngài, xin Ngài hãy lập tức xuất khỏi thiền Diệt ngay bây giờ đi ạ!" Chỉ cần có vậy là vị đang nhập thiền Diệt ấy tự nhiên xả định ngay tức khắc.
Còn đối với vị Phạm Thiên ở cõi sắc giới, không có điều nào trong 4 điều này là quan trọng cả; nếu phải làm một việc, thì các vị ấy chỉ quán xét tuổi thọ của mình thôi.

Puc: Hãy cho biết:
- Tâm nào có ở chó mà không có ở người?
- Tâm nào có ở người mà không có ở chó?
- Tâm nào có thể có ở cả chó lẫn người?
- Tâm nào không thể có ở chó và người?
- Tâm nào có ở Phạm Thiên Sắc giới mà lại không có ở Phạm Thiên Vô Sắc giới?
- Tâm nào có ở Phạm Thiên Vô sắc giới mà lại không có ở Phạm Thiên Sắc giới?
- Tâm nào có thể có ở cả hai?
- Tâm nào không thể có ở cả hai hạng Phạm Thiên?

Vis:
- Không có tâm nào dành riêng cho chó cả.
- Tâm có thể có ở người mà không thể có ở chó, có 43 là: Tâm Tiếu sinh, 8 đại quả, 8 đại tố, 9 thiện đáo đại, 9 tố đáo đại, 8 tâm siêu thế.
- Có cả thảy 37 tâm có thể sanh khởi ở cả chó lẫn người: 12 tâm bất thiện, 17 tâm vô nhân (trừ Tiếu Sinh), 8 đại thiện.
- 9 tâm không thể có ở cả chó lẫn người đó là 9 tâm quả đáo đại.
- Có 27 tâm chỉ có ở Phạm Thiên sắc giới mà không có ở Phạm Thiên vô sắc giới: 11 tâm vô nhân (trừ 3 cặp ngũ song thức và sinh tiếu), 15 tâm sắc giới, tâm sơ đạo.
- Có 4 tâm chỉ sanh ở Phạm Thiên Vô Sắc mà không thể sanh ở Phạm Thiên Sắc Giới đó là 4 tâm quả Vô Sắc.
- Có 42 tâm có thể sanh khởi ở ca hai bậc Phạm Thiên Sắc Giới và Vô Sắc Giới: 10 bất thiện (trừ 2 sân) khai ý môn, 8 đại thiện, 8 đại tố, 4 thi?n vô sắc, 4 tố vô sắc, 7 tâm siêu thế (trừ sơ đạo).
- Có 16 tâm không thể sanh ở tất cả chư Phạm Thiên (cả sắc giới lẫn vô sắc): 2 tâm sân, tâm tỷ thức, 2 thiệt thức, 2 thân thức, và 8 đại quả.

Puc: Có bao nhiêu tâm lộ ngũ môn và ý môn có thể sanh ở các cõi Dục giới kể ra. Ðồng thời hãy cho biết tâm nào có thể khởi ở các hạng người sau đây:
1) Bậc Dự Lưu ở cõi Dục giới: vô thiền và hữu thiền?
2) Bậc Dự Lưu ở cõi Sắc Giới: Vô thiền và hữu thiền?
3) Bậc Dự Lưu ở cõi Vô Sắc Giới: Vô thiền và hữu thiền?
4) Bậc Nhất Lai ở cõi Dục giới: Vô thiền và hữu thiền?
5) Bậc Bất Lai ở cõi Dục giới: không có thiền?
6) Bậc Bất Lai hữu thiền ở cõi sắc giới. Thiền ở đây muốn nói là thiền sắc giới.
7) Bậc La hán hữu thiền ở cõi Dục giới và La Hán hữu thiền ở cõi Vô sắc giới.

Vis:
- Có tất cả 68 tâm lộ ngũ môn có thể sanh ở cõi Dục giới:ù

- Có cả thảy 20 tâm lộ tỷ môn, trong đó có 3 lộ biết cảnh rất lớn, 4 lộ biết cảnh lớn, 6 lộ biết cảnh nhỏ, 7 lộ biết cảnh rất nhỏ.

- Có cả thảy 20 tâm lộ thiệt môn, trong đó có 3 lộ biết cảnh rất lớn, 4 lộ biết cảnh lớn, 6 lộ biết cảnh nhỏ, 7 lộ biết cảnh rất nhỏ.
- Có cả thảy 20 tâm lộ thân môn: (như lộ thiệt môn).
- Có cả thảy 4 tâm lộ nhãn môn: 1 lộ biết cảnh rất lớn chót na cảnh, 1 lộ biết cảnh rất lớn chót đổng lực có hữu phần khách, 2 lộ biết cảnh lớn có hữu phần khách.
- Có cả thảy 4 tâm lộ nhĩ môn: (như lộ nhãn môn).
Và sau đây là những tâm lộ ý môn có thể sanh khởi ở cõi Dục giới: 6 lộ biết cảnh rất rõ chót na cảnh, 8 lộ biết cảnh rất rõ chót đổng lực có hữu phần khách, 8 lộ bi?t cảnh rõ có hữu phần khách, 12 tâm lộ Tadanuvattikamanodvaaraviithi (lộ ý tùy thuộc lộ ngũ) mà bắt nguồn từ tâm lộ tỷ môn, thiệt môn, thân môn, cùng tất cả tâm lộ chiêm bao.

* Bây giờ nói qua những tâm có thể sanh ở các hạng người sau đây:

1) Bậc Dự lưu vô thiền ở cõi Dục giới có được 41 tâm: 7 tâm bất thiện (trừ 4 tham và si hoài nghi), 17 tâm vô nhân (trừ tiếu sinh), 8 đại quả, 8 đại thiện và tâm sơ quả. Nếu có thiền thì kể thêm 9 thiện đáo đại.
2) Bậc Dự Lưu vô thiền ở cõi sắc giới có được 16 tâm: 4 tham bất tương ưng kiến, si hoài nghi, 11 tâm vô nhân (trừ 3 cặp ngũ song thức sau và sinh tiếu), 8 đại thiện, 1 tâm quả sắc giới nào đó (tùy cõi) và một tâm sơ quả, nếu có thiền thì kể thêm 9 thiện đáo đại.
3) Bậc Dự Lưu vô thiền ở cõi vô sắc giới có đư?c 16 tâm: 4 tham ly tà si phóng dật, khai ý môn, 8 đại thiện, 1 tâm quả vô sắc nào đó (tùy cõi) và tâm sơ quả.
Nếu vị Dự Lưu hữu phần ở cõi không vô biên thì có được 20 tâm tức là lấy 16 tâm trên cộng thêm 4 thiện vô sắc nếu là Dự lưu hữu thiền ở cõi Thức vô biên thì có được 19 tâm: 16 + 3 tâm thiện vô sắc bậc cao. Nếu là Dự lưu hữu thiền ở cõi vô sở hữu thì có được 18 tâm là lấy 16 + 2 thiện vô sắc bậc cao. Nếu là Dự lưu hữu thiền ở cõi Phi tưởng phi phi tưởng thì có được 17 tâm là: 16 + tâm thiện Phi tưởng Phi Phi tưởng.
4) Bậc Nhất Lai vô thiền ở cõi Dục giới có được 41 tâm như đối với trường hợp Dự lưu vô thiền ở cõi Dục giới chỉ là thế tâm nhị Quả vào chỗ tâm sơ quả. Nếu có thiền thì cộng thêm 9 thiện Ðáo Ðại.
5) Bậc Tam Quả vô thiền ở cõi Dục giới có được 39 tâm: 4 tham ly tà, Si hoài nghi, 17 tâm vô nhân (trừ Tiếu Sinh) 8 đại thiện, 8 tâm đại quả, và tâm tam quả.
6) Bậc Tam Quả hữu thiền ở cõi sắc giới có được 31 tâm: 4 tham ly tà, si hoài nghi, 11 tâm vô nhân (trừ 3 cặp ngũ thức sau với tiếu sinh), 8 đại thiện 5 thiện sắc giới, 1 tâm quả sắc giới nào đó (tùy cõi) và tâm tam quả.
7) Bậc La Hán hữu thiền ở cõi Dục giới có được 44 tâm: 18 tâm vô nhân, 8 tâm đại tố, 8 tâm đại quả, 9 thiện đáo đại, tâm tứ quả.
- Bậc La hán hữu thiền ở cõi Không Vô Biên có được 15 tâm: Khai ý môn, 8 đại tố, 1 tâm quả vô sắc nào đó (tùy cõi) tâm tứ quả và 4 tố Vô sắc.
- Bậc La hán hữu thiền ở cõi Thức Vô Biên có được 14 tâm: Khai ý môn, 8 đại tố, 1 tâm quả vô sắc nào đó (tùy cõi) tâm tứ quả và 3 tố vô sắc bậc cao.
- Bậc La hán hữu thiền ở cõi Vô sở hữu có được 13 tâm: Khai ý môn, 8 đại tố, 1 tâm quả vô sắc nào đó (tùy cõi) tâm tứ quả và 2 tâm tố vô sắc bậc cao.
- Bậc La hán hữu thiền ở cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng có được 11 tâm cơ bản cộng với tâm tố Phi Tưởng Phi Phi Tưởng.

Puc: Ở 11 cõi dục có 80 tâm khách quan ở 15 cõi sắc giới hữu tưởng có 64, ở 4 cõi Vô sắc có 42. Hãy phân định các tâm khách quan này theo từng cõi một cách tương ứng.

Vis:

A- 80 tâm khách quan phân bố trong 11 cõi dục giới như sau:
1) 4 đọa xứ có được 37 tâm khách quan: 12 tâm bất thiện, 17 tâm vô nhân (trừ Tiếu sinh), 8 tâm đại thiện.
2) 7 cõi vui dục giới có đủ 80 tâm khách quan.
B- 64 tâm khách quan phân bố trong 15 cõi sắc giới hữu tưởng như sau:
1) 10 cõi sắc giới phàm hữu tưởng có được cả 64.
2) 5 cõi tịnh cư có được 54 tâm khách quan, trừ ra 10 tâm: 4 tham hợp tà, si hoài nghi, 3 tâm Ðạo hữu học, 2 Tâm Quả thấp.
C- 42 tâm khách quan phân bố trong 4 cõi Vô sắc như sau:
1) Cõi Không Vô Biên có được cả 42 tâm khách quan.
2) Cõi Thức vô biên có đuợc 40 thôi, trừ thiện và tố Không Vô Biên xứ.
3) Cõi Vô sở hữu có được 38 tâm khách quan: trừ ra thiện và tố Thức Vô Biên Xứ.
4) Cõi Phi tưởng Phi Phi tưởng có được 36 tâm khách quan: trừ ra 3 thiện và 3 tố vô sắc bậc thấp.

Puc: Cũng đều là tâm lộ nhập định (samaapattiviithi), tại sao 4 đổng lực Dục giới trong Phalasamaapattiviithi (lộ nhập Quả định) lại được gọi chung là 4 sát-na thuận thứ (anuloma) trong khi cũng 4 tâm này mà trong tâm lộ nhập thiền định (Jhaanasamaapattiviithi) thì được gọi bằng 4 cái tên khác nhau: Chuẩn bị, Cận hành, Thuận thứ, chuyển tộc?

Vis: Sở dĩ có sự khác biệt trong vấn đề tên gọi như vậy là vì các tâm thiền bất luận lúc mới chứng hay lúc nhập thiền định đều thuộc về giống Thiện (Kusalajaati) hay giống Tố (kiriyajaati) trong khi các tâm quả Siêu thế luôn luôn là giống quả (Vipaaka jaati). Mà điều quan trọng cần nhớ là các đổng lực Dục giới: Chuẩn bị, Cận hành, Thuận thứ, chuyển tộc chỉ khởi lên khi có các đổng lực kiên cố cùng giống sẳn sàng sanh kế tục. Và do đó chính vì ở tâm lộ nhập quả định không có được tiêu chuẩn này nên 4 đổng lực Dục giới ở đây chỉ được gọi là 4 sát-na Thuận thứ mà thôi.

Puc: Hãy giải nghĩa cặn kẽ tại sao lại gọi là tâm Chuẩn bị, Cận hành, Thuận thứ, chuyển tộc, dũ tịnh. Dĩ nhiên, để chính xác hơn, hãy trích dẫn các câu giải tự (vacanatthaviggaha).

Vis:
1) Ðổng lực Dục giới nào làm nhiệm vụ bố trí, xếp đặt môi trường sanh khởi thuận tiện cho các đổng lực kiên cố như Ðạo Quả, hay tâm thiền, tâm thông thì đổng lực dục giới ấy được gọi là tâm chuẩn bị. Như các Ngài đã giải tự tiếng parikamma:
Indriyasamataadiihii paritobhaagehi appanaa kriyaati sajJiiyati etenaati parikamma.m (Tâm nào bố trí môi trường sanh khởi cho các tâm Kiên cố bằng cách làm những nhiệm vụ như quân bình hóa các quyền chẳng hạn thì tâm đó được gọi là tâm chuẩn bị vậy).
Hay giải tự theo cách khác:
Parikaroti appanam qbhisankharoti parikamma.m (tâm đổng lực nào đầu tư vào các tâm kiên cố, giúp chúng khởi lên thì tâm ấy chính là chuẩn bị vậy).
2) Cận hành là tâm đổng lực Dục giới khởi lên tại giới tuyến của đổng lực kiên cố như các ngài đã giải tự tiếng upacaara:
Appanaaya upeccacaratiiti upacaaro (Tâm đổng lực Dục giới nào sinh kế cận với đổng lực kiên cố, tâm ấy được gọi là cận hành).
Samiipe caratiiti upacaaro (như trên).
3) Thuận thứ là tâm Ðổng lực Dục giới hợp đồng với đổng lực kiên cố trên khía cạnh đào thải pháp đối lập (patipakkhadha hay paccaniikadhamma) như các Ngài đã giải thích:
Paccaniikadhammavidhammanena appanaaya anukulanti anulo ma.m

Hay giải theo cách khác:
Pubbaaraana.m anulometiiti anuloma.m (tâm nào sanh lên để hòa nhịp với cả đổng lực phía trước mình (parikammajavana) lẫn đổng lực phía sau mình (đổng lực kiên cố), tâm ấy được gọi là Thuận thứ.
4) Tâm chuyển tộc là đổng lực Dục giới sanh lên để chấm dứt dục tánh (trong tâm lộ chứng nhập thiền định) và phàm tánh (trong tâm lộ đắc đạo) để tiến lên chủng tánh cao hơn, hoặc là đáo đại chủng tánh hoặc là Siêu thế chủng tánh như các Ngài đã giải tự tiếng Gotrabhuu:
Gotta.m abhibhuyyati chijjati etthaati gotrabhuu. (4 đại thiện hợp trí trong vai trò làm chấm dứt dục tánh hay phàm tánh được gọi là tâm chuyển tộc hay Việt tánh).
Gotta.m bhaaveti va.d.dhetiiti gotrabhuu (Tâm đổng lực nào có nhiệm vụ nâng cao, tăng thượng chủng tánh, từ Dục chủng tánh lên đáo đại ch?ng tánh, từ phàm chủng tánh lên siêu thế, chủng tánh đó được gọi là Việt tánh hay chuyển tộc vậy).
5) Dũ tịnh là Ðổng lực Dục giới sanh lên để khiết hóa nội tâm các bậc Thánh Hữu học bằng cách đóng vai trò dẫn nhập cho chứng đạt các tầng thành vức cao hơn. Tức là khi bậc Dự-Lưu muốn tiến đạt Nhị Quả, trước khi hết tâm Dũ tịnh này xuất hiện để tiếp nhận cảnh Níp-bàn, ly khai cảnh hữu vi cũ, nhờ vậy tâm Nhị Ðạo mới khởi lên để biết cảnh vô vi đồng thời xử lý các phiền não ứng trừ.
Rồi bậc Nhất Lai và Bất lai khi chứng đắc tầng thánh vức cao hơn cũng phải nhờ đến tâm Dũ tịnh theo cách thức vừa nêu, để làm cho thanh tịnh thêm nữa cái nội tâm vốn đã thanh tịnh phần nào của một vị thánh hữu học. Như lời giải tự sau đây:

Vodaanetiiti vodaana.m (Dũ tịnh là tâm đổng lực có nhiệm vụ khiết hóa nội tâm chữ thánh hữu học cho được thanh tịnh hơn nữa).
-ooOoo-

VÍ DỤ VỀ TÂM LỘ NHÃN MÔN:

- Hữu phần: Người đàn ông nằm ngủ dưới cây xoài.
- Hữu phần vừa qua: Bỗng nghe tiếng xoài rụng.
- Rúng động: Bị âm thanh đó khích động.
- Dứt dòng: Bật dậy khỏi chỗ nằm.
- Khai ngũ môn: Ðứng lên tìm xuất xứ của tiếng động vừa rồi.
- Ngũ thức: Nhìn thấy trái xoài.
- Tiếp thâu: Bước đến nhặt lấy nó.
- Suy đạc: Săm soi xem nó hư hay chưa.
- Ðoán định: Quyết định lột vỏ.
- Ðổng lực: Thưởng thức mùi vị bằng cách cắn ăn.
- Na cảnh: Nuốt vào bụng.
- Hữu phần: Nằm ngủ trở lại.
-ooOoo-
Ðầu trang 01 | 0203 |04Mục lục

TẢN MẠN TÂM TƯ