Phần [02] Giáo Tài A Tỳ Đàm



I. VỊ TRÍ CỦA SẮC (RUUPA)
1) Các sắc sau đây: 4 đại hiển, thần kinh thân, sắc cảnh sắc, sắc cảnh thinh, sắc cảnh khí, sắc cảnh vị, sắc cảnh xúc, 2 sắc tính, mạng quyền, vật thực, giao giới, thân biểu tri, 3 kỳ dị, tứ tướng là những sắc nằm cùng khắp trên thân thể chúng sanh.
2) Thần kinh nhãn nằm ở mắt.
3) Thần kinh nhĩ nằm ở tai.
4) Thần kinh tỷ nằm ở mũi.
5) Thần kinh thiệt nằm ở lưỡi.
6) Ý vật nằm ở tim.
7) Khẩu biểu tri nằm ở miệng.
Tứ đại:
* Pathavii có bản tướng là Ngại chất (kakkha.lalakkha.na) và đây là câu giải tự về pathavii:
Sahajaataruupaani pathati pa.ti.t.thanti etthaati pathavii (Ðất là phần vật chất có nhiệm vụ nâng đỗ các sắc đồng sanh ).
* Aapo mang bản tướng "chảy ra và thấm rịn" (paggharanalakkhana, aabandhanalakkha.na). Ðây là những câu giải tự:

- Aapeti sahajaataruupesu byaapetvaa ti.t.thatiitiaapo (Nước là phần vật chất mang tính chan hòa các sắc đồng sanh và nương gá trong đó.
Appaayati sahajaatarupaani su.t.thu bruuheti va.d.dhetiiti aapo (nước là thành phần vật chất có nhiệm vụ trưởng dưỡng, phát triển các sắc đang sanh)
Sahajaataruupaani avippaki.n.naani katvaa bhuso paatirakkhatiiti aapo (nước là phần vật chất có nhiệm vụ bão tồn, gắn chặt các sắc đồng sanh không cho hoại tan, rời rạc nhau).
Tejo gồm có 2 u.nhatejo (nhiệt hỏa) và siitatejo (hàn hỏa), tuy thế bản tướng của lữa nói chung chỉ có một là u.nhattalakkha.na[hơi nóng và hơi lạnh đều được gọi là lữa.] .
Ðây là câu giải tự:
Tejeti paripaacetiiti tejo (lữa là phần vật chất có nhiệm vụ nung chín). Lữa được chi 5 loại :
1) usmaatejo: Hơi ấm trong thân thể
2) santappanatejo: bệnh nhiệt
3) dahanatejo: bệnh nhiệt
4) jiranatejo: Lữa đốt tế bào.
5) picakatejo: Lữa tiêu hóa thực phẩm.
Trong 5 thứ lữa này, chỉ có usmaatejo và paacekatejo (chất lữa làm tiêu hóa vật thực) là 2 thứ lữa có thường trực trong cơ thể chúng sanh, còn 3 thứ lữa kia thì không thường trực, chúng chỉ có mặt khi usmaatejo bộc phát quá mạnh (viparita), như đối với người bị bệnh sốt thì usmaatejo sẽ trở thành santappanatejo, nếu sốt nặng quá thì thành ra dahanatejo. Còn jira.natejo cũng là từ usmaatejo biến thái nên, để đốt cháy các tế bào trong cơ thể người bệnh hoặc người già, tạo ra các hiện tượng: da, răng rụng, tóc bạc...
Vaayo mang tính căng phồng và lay động (vi.t.thambhanalakkhana, samiira.nalakkha.na). Gió là yếu tố chính cho các hoạt động. Nói theo bản tướng thì có tới 2 loại gió vitthambhanavaayo và samiira.navaayo ta có thể gọi vittha là "Tĩnh phong" vì đó là chỉ về loại gió giữ thăng bằng cho mọi vật chất được đứng vững, như câu giải tự sau đây:
Vaayati sahajaatadhamme apatamaane katvaa vahatiiti vaayo (giữ thăng bằng cho các sắc đồng sanh không bị lung lay, lúc lắc đó được gọi là gió vitthambhanavaayo).
Còn samiira.navaayo là thứ gió làm cho các vật chất lay động, di chuyển, ta có thể gọi đây là động phong, như câu giải tự sau đây:
vaayoti desantaruppatti hetubhaavena bhuutasanghaatam paapetiiti vaayo (giósamiivanavaayo - Ðộng phong - là thứ gió làm cho các đại hiển (mahaabhuuta) đồng sanh khác xê dịch, biến động, rời khỏi vị trí cũ.
Nói theo thông tường thì trong cơ thể người ta có 6 loại gió:
1) uddhangamavaayo: Gió dồn ngược lên trên, như ợ, ngáp...
2) adhogamavaayo: Gió dồn xuống, như hơi đánh nắm chẳng hạn.
3) kucchitthavaayo: Gió thường trực có trong vùng bụng.
4) ko.t.thaasayavaayo: Gió trong thân mình.
5) angamagaanusaariivaayo: Gió di động khắp các bộ phận trong cơ thể.
6) assaasapassaavaayo: Gió trong dạng hơi thở ra vào.
6 thứ gió này luôn có mặt trong cơ thể nên còn được gọi chung là ajjhattavaayo, còn thứ gió thiên nhiên là ta thường thấy, được gọi là bahiddhavaayo.
* * *
Sắc tứ đại hiển được gọi là Mahaabhuuta vì chúng được xem là những sắc dẫn đầu (padhaana) cho các sắc khác, đồng thời bản tướng của chúng cũng rất rõ ràng nên gọi là Mahaabhuuta như câu giải tự sau đây:

Mahantaani hutvaa bhuutaani paatubhuutaaniiti mahaabhuutaani.
- Ðây là câu giải tự về cakkhupasaada: cakkhuvi~n~naa.nadhi.t.thita.m hutvaa samavisama.m cakkhati aacikkhanta.m viya hotiiti cakkhu (gọi là mắt vì đó là chỗ nương của nhãn thức và có bản chất là chỉ cho nhãn thức biết đâu là cảnh tốt, cảnh xấu).
Câu giải tự về sotapasaada:.
Sotavi~n~naanadhi.t.thita.m hutvaa sadda.m su.naatiiti sota.m (thần kinh nhĩ là chỗ nương cho nhĩ thức và có chức năng đặc biệt là nghe được âm thanh) hoặc 1 câu giải tự khác:Sadda.m su.nanti etenaati sota.m; sadde suyyanti etenaati sota.m. Câu giải tự thứ nhất có nói đến khía cạnh ngoài (.thaana- yuupacaara) của thần kinh nhĩ, 2 câu sau nói thẳng vào chức năng của thần kinh nhĩ.
Chaayatiiti ghaana.m (.thaanayuupacaara)
Ghaayanti etenaati ghaana.m (mukhaya)
Ghaayiiyanti etenaati ghaana.m (mukhaya)
Jiivita.m avhaayatiiti jivhaa: Cái gì có bản chất tự nói lên rằng: Vị là điều kiện sanh tồn, là yếu tố để sống còn thì đó là thần kinh thiệt.
(Ngài Jotika giải rằng): Tiếng jivhaa nếu đem chiết tự thì có 2 từ: Jiivita.m và avhaaJiivita.mlà tuổi thọ, sinh mạng (aayu), ở đây Jiivita.m được dịch là vị (rasa) vì mạng sống được kéo dài phải nhờ vào Vị, như là phải ăn phải uống. Ðây là giải tự theo lối phaluupacaara, cũng là 1 cách gián tiếp, nhưng trên khía cạnh tác động thành quả. Ở đây trong tiếng Jiivita muốn đổi qua jivhaa phải biến Jii thành ji và xóa vita để ghép svhaa vào thành ra jivhaa.
Câu giải tự về kaayapasaada: kucchitaana.m kesaadiina.m paadadhammaa- na~nca aayoti kaayo: (Thân là chỗ tích tập những vật uế trược cùng các ác pháp).
Mà thần kinh thân là 1 phần trong cái thân ấy nên lối giải này được gọi là Ekadesuupacaara. Còn nếu giải tự theo lối .thaanayuupacaara thì như sau "Thân (theo câu giải tự paali ở trên) là xuất xứ của thần kinh thân"
5 sắc thần kinh vì là những sắc có bản chất (sabhaava) tinh anh nên được gọi là paasada (pasiidatiiti pasaado): Sắc nào có bản chất tinh anh, tinh túy thì sắc ấy được gọi là sắc thanh triệt.
VISAYARUUPA (HAY GOCARARUUPA)
1) Ruupaarammana: Bất cứ cái gì mà mắt có thể thấy được, dù là sinh vật hay vô sinh vật, cũng được gọi là Ruupaa, các Ngài chú giải tiếng Ruupaa như sau:
Ruupayati hadayangatabhaava.m pakaasetiiti ruupa.m (cái gì làm cho tình cảm được biểu lộ qua ánh mắt thì đó là cảnh sắc vậy).
Ruupayati dabba.m pakaasetiiti ruupa.m (cái gì nói lên hình dạng của sự vật cái đó là sắc vậy).
2) Saddaaramma.na:
Saddiiyati uccaariiyatiiti: (những âm thanh nào được loan đi, phát ra, đều được gọi là cảnh thinh cả).
Sappati sota vi~n~neyyabhaava.m gacchatiiti saddo: Cái nào có bản chất làm cho nhĩ thức biết được cái đó là cảnh thinh)
Câu giải tự thứ nhất ám chỉ cho những âm thanh nào do sinh vật phát ra như tiếng người, tiếng thú... Còn câu giải tự thứ hai chỉ cho bất cứ loại âm thanh, tiếng động nào dù của sinh vật (aJiivita) mà tai có thể nghe, nhĩ thức có thể biết.
3) Gandhaaramma.na:
Gandhaayati attamo vatthu.m suucetiiti: gandha cái gì tự chỉ điểm chỗ mình nương dựa bằng cách bố hơi cái đó là mùi vậy) nghĩa là giống như một cái hoa có mùi thơm chẳng hạn thì chính cái hoa đó được người ta biết đến là nhờ mùi hương của nó tỏa ra. Các Ngài giải tiếng suuceti như sau: Idamettha atthiiti pesu~n~na.m karonta.m viya hoti .
4) Rasaaramma.na:
Rasiiyati assaadiyatiiti raso (cái gì cần phải được nếm, thưởng thức bằng thiệt thức thì cái đó là vị vậy).
5) Pho.t.thabbaaramma.na:
Phusitabbanti pho.t.thabba.m (cảnh nào cần phải được thần kinh thân đối xúc thì cảnh dó là cảnh xúc).
Cảnh xúc có 3:
a) Pa.thaviipho.t.thabbaarammana.
b) Tejopho.t.thabbaarammana.
c) Vaayo pho.t.thabbaarammana.
4 cảnh đầu và 3 cảnh xúc cộng lại thành 7 sắc visaya (sắc cảnh giới) hay còn gọi là gocararuupa (sắc đối tượng). Dở dĩ gọi như vậy vì tiếng Gocara được giải tự như sau:
Gaavo caranti etthaati gocara ( chỗ nào loài trâu bò thường lui tới để ăn cỏ chỗ ấy được gọi là Gocara)
Mà 7 cảnh nầy là những đối tượng sở tri của 6 môn (chadvaarikacitta), loài trâu bò luôn tới lui đồng cỏ vậy, chính vì thế, để định nghĩa về sắc đối tượng các Ngài bão rằng "Gocaraadisaati Gocara" (các sắc đối tượng cũng giống như chỗ ăn cỏ của trâu bò). Lối giải tự nầy mang tên là Sadisuupacaaranaya. Còn câu Gaavo caranti etthaati Gocara là câu giải tự theo lối Mukhayanaya . Vậy ở đây tiếng Go đồng nghĩa với Indriya và tiếng Gocara đồng nghĩa với Aaramma.na.
2 BHAAVARUUPA (sắc giới tính)
1) Itthibhaavaruupa (sắc tố nữ)
Itthiipaa bhaavo itthibhaavo (sắc nào làm tiêu chuẩn khẳng điïnh nữ tính thì sắc đó được gọi là sắc nữ giới tính).
2) Purisabhaava ( Rumabhaava: Sắc tố nam)
Pumasso bhaavo pumabhaavo (sắc nào làm tiêu chuẩn khẳng điïnh nam tính thì sắc đó được gọi là sắc nam giới tính).
Con người ta được gọi nam hay nữ giới, đực, cái, trống, mái là dựa vào 4 khía cạnh:
a) Linga: Như mặt mày, tay chân.
b) Nimitta: Các bộ phận đặc biệt của mỗi giới tính mà kể khác phái không có như râu ria, bộ phận sinh lý...
c) Kutta: Những sinh hoạt đặc biệt của mỗi phái giới tính như trò chơi khác nhau chẳng hạn.
d) Aakappa: Dáng vẽ, tư cách như yểu điệu hay hùng dũng cứng cổi ...
4 chi tiết này luôn phụ thuộc cho sắc giới tính. Nếu 4 chi tiết nầy được hình thành bằng cách dựa vào sắc nữ giới tính thì người ta được gọi là nữ, bằng ngược lại thì là nam.
HADAYARUUPA (sắc ý vật)
Hadanti sattaa ta.m ta.m attha.m vaa anattha.m vaa puurentiiti hadaya.m (tất cả chúng sanh nhờ vào sắc gì để tạo điều hữu ích, vô ích - sắc ấy chính là ý vật vậy).
Sắc ý vật có 2:
a) Mamsahadayaruupa: trái tim (nhục tâm).
b) Vatthuhadaya ruupa: Một loại sắc nghiệp (kammajaruupa) nằm trong trái tim, mà sắc ý vật ở đây muốn nói chính là loại sắc nầy (Paali là vatthuhadayaruupahay hadayavatthuruupa).
Vị trí của sắc ý vật là một tiềm huyệt trong tim ở đây có chứa một lưu lượng máu nhiều bằng một lòng bàn tay. Ðó là chỗ nương của ý giới và ý thức giới. Theo Ngài Jotika giải thì tiềm huyệt nầy lớn bằng hạt punnaaga (tên một loại cây có hoa).
SẮC MẠNG QUYỀN (Jiivitaruupa)

Jiivanti sahajaatadhammaa etenaati Jiivita.m (sắc mạng quyền là cái mà các sắc đồng sanh nhờ đó mà được sống còn).
Sắc đồng sanh ở đây chỉ cho sắc nghiệp còn 3 thứ sắc kia thì phải nhờ vào điều kiện cá nhân (Samu.t.thaana) của chính mình mà tồn tại, chớ không nương vào sắc mạng quyền.
SẮC VẬT THỰC (Aahaararuupa)

Kabala.m kariiyati kabaliikaaro (được làm thành cục, thành miếng nên gọi là kabalikaara).
Aahariiyatiiti aahaaro (cái được người ta ăn tức là vật thực vậy).
Kabaliikaaro ca so aahaaro caati kabaliikaaraahaaro (cái gì được người ta làm thành miếng để ăn cái đó được gọi là đoàn thực).
Sắc vật thực trong 28 sắc pháp ám chỉ cho các sinh tố (ojaa) có trong các món ăn chớ không phải chỉ cho các thực phẩm thô thiển. Sau đây là câu giải tự về tiếng ojaa:
attano udayaanantara.m ruupa.m janetiiti ojaa (sinh tố là chất giúp cho thành phần sắc khác được sinh trưởng một cách khít khao).
Cơ thể chúng sanh nhờ có cái sinh tố mới có thể sống còn một cách mạnh mẻ vững chải.
SẮC HƯ KHÔNG (aakaasaruupa hoặc paricchedaruupa: Sắc giao giới).

- Na kassatiiti aakaaso
- Akaasoyeva aakaaso
(chỗ không thể cày bừa, bươi xới gì được, gọi là hư không).
Có 4 thứ hư không :
1) Aja.taakaasa: Khoảng thinh không thiên nhiên của vũ trụ, dưới thì kể từ lớp đất và nước của địa cầu trở xuống, trên thì tính từ cõi vô sắc trở lên.
2) Paricchinnaakaasa: những khoảng trống hạn hẹp thông thường như cữa nhà, lỗ tai, lỗ mũi, hầm hố...
3) Kasi.nugghaatinaakaasa: đề mục hư không trong án xứ thiền chỉ.
4) Paricchedaakaasa: khoảng cách giữa các phần tử vật chất mà nói theo vi diệu pháp là các bọn sắc. Ðây được goi là loại hư không hẹp nhất mà có mặt trong cả 3 loại kia (nghĩa là trong mỗi cái kia đều có thứ hư không nầy).
Bất cứ vật chất nào cũng đều phải cần có một khoảng không gian cho riêng mình để tự khẳng định vị trí, hình dáng ở đây đối với các sắc cũng thế, mỗi bọn sắc cũng đòi hỏi phải có một không gian riêng mà khoảng cách giữa 2 không gian của các bọn sắc được gọi là sắc giao giới hay hư không vậy, nhờ có nó giới tuyến của các bọn sắc được phân định rõ ràng và khi tu quán đến trình độ udayabbaya pa~n~naana với bhanga~naana có xét về sự sanh diệt của sắc pháp cũng dễ bởi hành giả chỉ việc y cứ vào sắc giao giới mà thẩm nghiệm.
VI~N~NATTIRUUPA (Biểu tri)

Adhippaaya.m vi~n~naapetiiti vi~n~natte (sắc nào biểu lộ được ý muốn của người ta thì sắc đó là sắc biểu tri).
Vi~n~naayatiiti vi~n~natti (biểu lộ tức là biểu tri ) .
Vi~n~naapenti janaa vi~n~naayanti vaa janehi a~n~naama~n~nassu cittaani etaayaati vi~n~natti (người ta hiểu ý nhau bằng sắc nào, sắc ấy được gọi là biểu tri)
Sắc biểu tri có 2 : Kaayavi~n~natti và Vaciivi~n~natti. Từ 2 sắc nầy lại triển khai ra thêm hai khía cạnh nữa để có được 4 biểu tri:
1) Bodhanavi~n~natti: những cử động, ngôn từ mang mục đích biểu lộ ý muốn.
2) Pavattanavi~n~natti: những cử động thân khẩu không nhằm vào mục đích biểu lộ ý muốn.
Vậy nếu kể rộng thì có tới 4 thứ biểu tri:
a) Bodhanakaayavi~n~natti
b) Pavattanakaayavi~n~natti
c) Bodhanavaciivi~n~natti
d) Pavattanavaciivi~n~natti.
VIKAARARUUPA (kỳ dị hay đặc biệt)

Viseso aakaaro vikaaro - chi tiết khía cạnh đặc biệt của sắc nipphannaruupađược gọi là sắc vikaara vậy.
Vậy tuy gọi là sắc đặc biệt nhưng kỳ thật đó không phải là loại sắc nào hết mà chỉ là những chi tiết, khía cạnh riêng của sắc Nipphanna thôi. Bởi vì sắc Ðặc biệt có 3:
a) Ruupalahutaa:
Lahuno bhaavo lahutaa (sự nhẹ nhàng, là khinh)
Ruupassa lahutaa ruupalahutaa (sự nhẹ nhàng linh hoạt của sắc được gọi là Ruupalahutaa).
b) Ruupakamma~n~nataa:
Muduno bhaavo mudutaø.
Ruupassa mudutaa ruupamudutaa (sự uyển chuyển mềm mại của sắc chính là Ruupamudutaa: nhu sắc)
c) Ruupakamma~n~nataa:
Kammaani saadhu kamma~n~na (linh hoạt là thích nghiệp).
Kamma~n~nassa bhaavo kamma~n~nataa (sự linh hoạt tức là thích nghiệp tánh)
Ruupassa kamma~n~nataa ruupakamma~n~nataa (sự linh hoạt, cơ động của sắc chính là sắc nghiệp).
2 sắc biểu tri cũng được kể vào sắc đặc biệt, vậy có tất cả 5 sắc đặc biệt, 5 sắc Ðặc biệt chỉ có đối với loài sinh vật (Jiivita) thôi. 3 sắc Ðặc biệt vừa kể trên luôn đi chung với nhau và nhờ có chúng, 2 sắc biểu tri mới hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt đẹp, bằng không thì rất vụng về thô thiển, lọng cọng.
LAKKHANARUUPA (Tứ tướng)

Lakkhiiyanti vinicchiiyanti dhammaa ime sankhaataati etenaati lakkhana.m (các bậc hiền trí dựa vào sắc nào để khẳng định hữu vi tánh, sắc ấy là sắc tứ tướng).
1) Upacayaruupa:

- aadito uparito ca cayoti upacayo (giai đoạn sắc Nipphanna khởi sanh từ sát-na tái tục cho tới tuần lễ thứ 11, thời gian mà sắc nghiệp đã đầy đủ, được gọi là upacaya).
Nói rõ hơn, sắc nghiệp sanh khởi lần đầu tiên vào sát-na tái tục được gọi là upacaya. Ðối với loài thai sanh (Gabbhasuyyata) mãi cho tới tuần lễ thứ 11 các sắc nghiệp mới sanh đủ hoàn toàn còn trước đó (sau sát-na tái tục) thì sanh từ từ từng thứ. Giai đoạn phát triển sắc nghiệp nầy cũng được gọi là upacaya.
Ðối với loài thấp sanh (sa.msedaja) và hoá sanh (opapaatika) thì ngay thời điểm sát-na tái tục các bọn sắc nghiệp đã hiện khởi đầy đủ, giai đoạn đó được gọi là upacaya còn kể từ sau sát-na tái tục rồi, các sắc nghiệp có sanh đến mấy cũng không được gọi là upacaya. Ðó là nói về 2 sanh loại trên.
2) Santatiruupa:
Sa.m punappuna.m tati santati (sự hiện khởi liên tục của các sắc nipphannađược gọi là santati).
Sau khi các sắc nghiệp thời tái tục đã hiện khởi đầy đủ rồi thì sự sanh khởi của các sắc nghiệp sau đó, cho đến trọn đời, được gọi là santati. Ðối với sắc tâm, sắc âm dương, sắc vật thực cũng thế, trong lần sanh khởi đầu tiên thì dược gọi là upacayaruupa, sau khi đã hiện khởi đầy đủ từ đó về sau được gọi là santatiruupa.
Trong atthasaalinii và visuddhimagga-atthakatha (chú giải Thanh tịnh đạo) có đưa một ví dụ về sắc upacaya và santati như sau:
* Có một cái hồ được đào gần bên dòng sông lớn, khi đào vừa xong luồng nước mới chảy vào lần đầu được ám chỉ cho sắc upacaya trong lần đầu tiên, những đợt nước sau đó cho tới khi đầy hồ được ám chỉ cho sắc upacaya sau thời tái tục. Khi nước hồ đã đầy và chảy tới lui ra thì được ám chỉ cho santatiruupa.
3) Jarataruupa:
jaraana.m bhavo jarataa: bản chất cằn cỏi của các sắc Nipphanna được gọi là lão mại
Khi các sắc (catujanipphannaruupa) đã sanh khởi rồi thì đời sống (thời gian tồn tại) kéo dài được 51 sát-na. Sát na đầu tiên được gọi là sát-na sanh, sát-na thứ 51 sát-na diệt còn các sát-na giữa (gồm 49 cái) là sát-na trụ. Chính 49 sát-na này là jarata, tức giai đoạn già cỏi của sắc pháp (catucanipphannaruupa) bởi vì ở khoảng này các sắc đã có dấu hiệu biến suy, tàn rụi.
4) Aniccataaruupa:
Aniccaanam bhavo aniccataa - bản chất biến hoại của sắc Nipphanna chính là sắc vô thường).
Nói theo tinh thần của tạng kinh thì khi lọt lòng mẹ là sanh, lúc tắt thở là tử, thời gian giữa là lão. Ðó là sammutijaati-jaraa-mara.na. Còn theo Abhidhamma thì phải là paramatthajaati-jaraamara.na.
Gọi là tử theo tinh thần Abhidhamma tức ám chỉ cho sát-na diệt của sắc ở đây là sát-na thứ 51. Jarataruupa và Aniccataaruupa có mặt trong nipphannaruupa kể từ sát-na tái tục cho tới hết kiếp sống.
Già có 2:
1) Paticchannajaraa: tiềm lão.
2) Paaka.tajaraa : hiển lão.
Vào từng giây phút trong cả kiếp sống cơ thể chúng sanh luôn biến suy, cằn cỏi, đó là Pa.ticchannajaraa, cái già kín đáo. Khi tuổi trẻ không còn nữa, các hiện tượng răng rụng tóc bạc... Xuất hiện thì đó là Paaka.tajaraa, cái già cụ thể mà cũng có thể nhìn thấy.
Ðối với các sắc phi quyền hệ (anindriyabaddharuupa) tức là các vật chất vô sinh (ajiivita) như cây cối, núi non, đất đai... những vật chất không có liên hệ gì tới Indriya, cũng bị cái "cằn cỏi" chinh phục. Ðối với chúng sanh cũng có 2 cách cằn cỏi: Pa.ticchannajaraa và Paaka.tajaraa. Nếu phân loại rõ ràng thì có những thứ chỉ có Pa.ticchannajaraa (tính biến suy tàng ẩn) mà không có Paaka.tajaraa (sự biến suy rõ rệt) như đất đai, nước, núi non, mặt trăng, mặt trời, vàng, ngọc... cái cằn cỏi của chúng được gọi theo từ chuyên môn là aviicijaraa (sự cằn cỏi khó biết), vì quả thật khó làm gì để có thể ghi nhận tận mắt cái biến suy của những vật chất đó được.
Còn như cây cối... những vật chất ngoài ra những thứ vừa kể trên thì vừa có Paaka.tajaraa bởi vì ta có thể chứng kiến tận mắt sự thay đổi, cằn cỏi của chúng. Gọi theo từ chuyên môn thì sự cằn cỏi của những vật chất thứ này là saviicijarà (sự cằn cỏi để thấy).
-ooOoo-
II. RUUPA-VIBHAAGA
Sắc pháp nếu gọi tên theo bản thể thì có 8:
Ahetuka: Vì chúng không có liên hiệ gì về nhân
Sapaccaya: Vì chúng có 4 duyên liên hệ.
Saavasa: Vì chúng là cảnh của lậu.
Sankhaata: Vì được cấu tạo bởi 4 duyên.
Lokiya: trực thuộc tam giới.
Kaamaavacara: Vì là cảnh của Dục ái
Aanaaramma.na: Vì không thể biết cảnh
Appahakaatabba: Không là đối tượng sát trừ.
SẮC PHÁP PHÂN LOẠI THEO THỂ TÍNH

1) Ajjhattikaruupa: 5 sắc thần kinh
2) Baahiraruupa: 25 sắc còn lại
3) Vatthuruupa: 5 sắc thần kinh và ý vật.
4) Avatthuruupa: 22 sắc còn lại
5) Dvaararuupa (là sắc làm nhân sanh cho lộ ngũ môn và thân nghiệp khẩu nghiệp: 5 sắc thần kinh, 2 biểu tri.
6) Advaararuupa: 21 sắc còn lại
7) Indriyaruupa: 5 biểu tri (3 kỳ dị, 2 biểu tri) 2 sắc tính, mạng quyền.
8) Anindriyaruupa: 20 sắc còn lại
9) O.laarikaruupa: 5 sắc thần kinh, 7 sắc cảnh giới (visayaruupa).
10) Sukhumaruupa: 16 sắc còn lại
11) Santikeruupa: 5 sắc thần kinh, 5 sắc cảnh giới.
12) Duureruupa: 16 sắc còn lại.
13) Sappatigharuupa: 5 sắc thần kinh, 7 sắc cảnh giới.
14) Appa.tigharuupa: 16 sắc còn lại
15) Upaadinnaruupa: 18 sắc nghiệp.
16) Anupaadinnaruupa: gồm có 40: 15 sắc tâm, 13 sắc quí tiết, 12 sắc vật thực
17) Sanidassanaruupa: sắc cảnh sắc
18) Anidassana: 27 sắc còn lại.
19) Gocasaggaahakaruupa: 5 sắc thần kinh.
20) Agocaraggaahakaruupa: 23 sắc còn lại.
21) Avinibbhogoruupa: 4 đại hiển cảnh sắc, cảnh khí, cảnh vị, vật thực.
22) Vinibbhogaruupa: 20 sắc còn lại.
MINH GIẢI (theo từng căn)
Gọi là sắc nội không phải nhắm vào ý nghĩa "ở trong thân" mà nhắm vào ý nghĩa hữu ích, đắc dụng cũng như đối với người nào mà ta xem là tín cẩn, giúp được nhiều việc thì ta gọi là người nội bộ vậy. Ở đây, 5 sắc thần kinh vô cùng cần thiết cho chúng sanh, nếu thiếu chúng, chúng sanh sẽ không làm gì được, chính vì vậy chúng được gọi là sắc nội.
1) 23 sắc còn lại vì không quan trọng bằng 5 sắc thần kinh nên được gọi là sắc ngoại, chúng được xem như "người ngoài, kẻ không ăn nhằm gì".
2) Theo quy luật, danh pháp của chúng sanh cõi ngũ uẩn phải nương vào một cái đó để sanh khởi, nếu không thì chúng chẳng sinh khởi được. Và chỗ nương ở đây chính là 5 sắc thần kinh và ý vật, 6 sắc nầy được gọi chung là vatthuruupa, muốn biết cảnh phải nhờ chúng cũng như muốn đi trên hư không phải nhờ phi cơ vậy, 22 sắc còn lại không phải là chỗ nương của danh pháp nên được gọi là sắc phi vật.
3) Sự sinh khởi của lộ tâm ngũ môn và của thân nghiệp, khẩu nghiệp phải nương vào 7 sắc môn (dvaararuupa), chính vì lộ ngũ môn phải nương vào 5 sắc thần kinh mới sanh khởi được nên 5 sắc ấy được gọi là uppattidvaara. Còn đối với thân ác hạnh khẩu ác hạnh, thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh muốn có được phải nhờ 2 sắc biểu tri để làm phương tiện thực hiện nên 2 sắc ấy được gọi là kammadvaara. 21 sắc còn lại không đóng được những vai trò này nên được gọi là sắc phi môn.
4) Trong việc thấy... của nhãn thức ... phải lấy nhãn thanh triệt... làm yếu tố, điều kiện chủ yếu. Không có nó, việc thấy, không được thực hiện muốn bắt cảnh ngũ rõ ràng phải nhờ vào sức mạnh của các sắc thần kinh như nhờ có thần kinh nhãn tốt nên nhãn lực mới mạnh, mới tinh tường, bằng ngược lại thì cảnh sắc trở nên mơ hồ, lu mờ do đó 5 sắc thần kinh được gọi là sắc Indriya (Trưởng, chủ... ). Còn sắc nữ giới tính được gọi là sắc Indriya vì nó là tiêu chuẩn chủ yếu để khẳng định nữ giới tính của chúng sanh.
- Sắc nam giới tính cũng là tiêu chuẩn chủ yếu để khẳng định giới tính phái mạnh.
Cơ thể và dung sắc chúng sanh luôn tùy thuộc vào 2 sắc giới tính nầy mà khác nhau. Trong giây phút tái tục, nếu có sắc nữ tính sanh khởi thì cơ thể và dung sắc của chúng sanh từ đó về sau cứ dựa theo đó mà hình thành và phát triển sao cho thích hợp với nữ tính. Nếu trong lúc tái tục có sắc nam giới tính sanh khởi thì cơ thể và dung sắc chúng sanh từ đó cũng biến chuyển theo sắc đó cho tương ứng. Chính vì vậy 2 sắc tính cũng là sắc Indriya, những sắc có cơ năng chi phối sắc khác.
- Sắc mạng quyền được gọi là sắc Indriya vì nó có chức năng bảo vệ các sắc nghiệp được tồn tại suốt 51 sát-na tiểu. Sắc mạng quyền chỉ bảo vệ thôi chớ nó không phải là nhân sanh của sắc nghiệp, kể từ khi có sắc nghiệp hiện khởi, sắc mạng quyền đóng vai trò chủ yếu trong việc duy trì chúng.
20 sắc còn lại không có chức năng tương tự nhu những sắc mà kể nên được gọi là những sắc phi quyền.
5) 5 thanh triệt và 7 sắc cảnh giới được gọi là những sắc thô phải nhắm đến ý nghĩa "thô thiển, cứng cáp" mà tiếng o.laarika ở đây có nghĩa là rõ rệt. Tức là khi dùng trí tuệ quan sát thì nhìn thấy các sắc này rất rõ ràng, không như 16 sắc kia, dù có dùng trí tuệ cũng chỉ thấy được một cách hạn chế, trừu tượng.
6) Khi dùng trí tuệ quan sát thì 12 sắc thô rất dễ thấy nên chúng được gọi là sắc gần. Còn 16 sắc tế, dầu có vận dụng trí tuệ quán sát cũng thấy được 1 cách khó khăn nên chúng được gọi là sắc xa.
7) 12 Sắc thô là những sắc tiếp cận, đối xúc nhau một cách trực tiếp như thần kinh nhãn với cảnh sắc, thần kinh nhĩ với cảnh thinh... thần kinh thân với cảnh xúc, nên chúng được gọi là những sắc hữu đối xúc. Còn 16 sắc tế, nói theo thực tính thì chúng không có trực tiếp đối xúc nhau nên chúng được gọi là những sắc vô đối xúc
8) 18 sắc nghiệp được gọi là những sắc do thủ vì chúng được hình thành từ các thiện ác, những pháp có liên hệ với ái và kiến một cách khắn khít, trực tiếp riêng về 15 sắc tâm, 13 sắc quí tiết và 12 sắc vật thực thì không do nghiệp quá khứ tạo nên, chúng có mặt nhờ các điều kiện khác, nên có tên gọi là sắc phi do thủ.
9) Cảnh sắc là cái mà mắt có thể nhìn thấy nên nó được gọi là sắc hữu đối kiến, còn 27 sắc kia mắt không thấy được nên được gọi là những sắc vô đối kiến.
10) 5 sắc thần kinh được gọi là Gogaaheha vì chúng là những cơ quan tiếp nhận cảnh ngũ (pa~ncaaramma.na) mỗi thần kinh nhận một cảnh tương ứng. 5 sắc thần kinh lại được chia ra 2 loại:
a) Asamppattagocaraggaahakaruupa: Những thần kinh chỉ có thể bắt cảnh qua một khoảng cách nào đó. Ðây chính là 2 sắc thần kinh đầu tiên, vì nếu một vật được áp sát vào mắt thì mắt không thể nào thấy được, nhất định phải có một cự ly thích hợp. Ðối với tai cũng thế. Một tiếng động được gây trực tiếp lại màng nhĩ thì coi như không nghe gì cả, bắt buộc giữa căn và cảnh phải có một khoảng cách tối thiểu.
b) Sampattagocaraggahakaruupa: những thần kinh bắt cảnh tiếp cận trực tiếp. Ðó là 3 sắc thần kinh còn lại, vì cảnh của chúng phải xảy đến "không qua một khoảng cách nào" tức là trực tiếp.
11) 4 đại hiển sắc, khí, vị, vật thực được gọi là những sắc bất ly vì chúng là một tổng hợp không thể tách rời nhau, phải luôn đi chung với nhau, dù trong một phần tử vật chất (paramaanu) hay 1 tế bào sinh vật cũng luôn có đủ 8 sắc này. Trong một vật chất có ít sắc tố nhất cũng không thể thiếu 8 sắc này vì thế chúng được gọi là bất ly.
-ooOoo-
III- RUUPASAMU.T.THAANA
Có 4 nhân sanh của sắc: Nghiệp, tâm, quí tiết, vật thực.
- NGHIỆP: ở đây là những hành động thân khẩu ý được thực hiện từ quá khứ bằng 12 tâm bất thiện, 8 đại thiện, 5 tâm thiện sắc giới, 25 tâm này tạo ra các loại sắc nghiệp kể từ lúc tái tục cho tới kiếp sống của chúng sanh. Dĩ nhiên là tạo 1 cách gián tiếp.
- TÂM: ở đây là 75 tâm (trừ ngũ song thức, 4 quả vô sắc, tâm tái tục của tất cả chúng sanh và tâm tử của vị La Hán), 52 sở hữu ngay đời hiện tại (thay vì đối với sắc nghiệp thì nhân sanh phải là từ quá khứ). Các danh pháp vừa kể trên luôn tạo ra các sắc tâm cho chúng sanh kể từ sát-na sanh của tâm hữu phần đầu tiên trong kiếp sống.
- QUÍ TIẾT: Ở đây là siitatejo (ở đây là siitatejo - tạm dịch là "âm" -  với unhatejo (tạm dịch là "dương") có trong và ngoài cơ thể của chúng sanh để tạo ra các sắc quí tiết. Ðối với yếu tố âm dương trong cơ thể thì kể từ sát-na trụ (Thiti) của tái tục trở về sau luôn luôn tạo sắc quí tiết trong mỗi sát-na. Riêng về điều kiện âm dương thiên nhiên bên ngoài thì khi nào có thể giúp cho cơ thể tạo sắc quí tiết được thì giúp ngay, một cách không gián đoạn.
- VẬT THỰC: Ở đây là sinh tế trong vật thực, nhờ sinh tế (oja: vitamin) mà các sắc vật thực được sinh khởi trong mỗi sát-na, quá trình tác tạo nầy được bắt đầu kể từ lúc cơ thể chúng sanh nhận được vật thực ngoại.
QUÃNG THÍCH:
1) Kammasamutthaana: tổng cộng có tới 33 nghiệp: 12 bất thiện và 21 thiện, nhưng để tạo sắc nghiệp thì chỉ có 25 trừ 4 thiện vô sắc và 4 thiện siêu thế 4 thiện vô sắc là nghiệp thành tựu từRuupaviraagabhaavanaa (thiện ly tham trong sắc) nên không thể tạo sắc. Còn 4 thiện siêu thế thì là những nghiệp có công năng đoạn phá sanh hữu, làm sao lại tạo thêm sắc được.
2) Cittasamu.t.thaana: Tâm có tất cả 89 cái (tính hẹp) nhưng để làm nhân sanh cho sắc tâm thì chỉ có 75, trừ ngũ song thức, quả vô sắc, tất cả tâm tái tục và tâm viên tịch của vị tứ quả.
Sở dĩ không tính ngũ song thức vì 10 tâm này quá yếu, không đủ sức tạo sắc tâm. 4 quả vô sắc bị trừ vì chúng là sản phẩm của thiện vô sắc, mang tính ly khai sắc pháp, nên không thể tạo sắc tâm được.
Còn tất cả tâm tái tục của chúng sanh và tâm viên tịch (tâm tử) của vị La Hán bị trừ ra là vì lý do như sau:
Có 19 tâm làm việc tái tục, đối với 4 tâm tái tục cõi vô sắc thì miễn giải thích, còn 15 tâm kia vì quá yếu bởi chúng là những tâm mới hiện khởi trong kiếp sống nên không thể tạo sắc tâm được nói về tâm tử của vị La Hán sở dĩ không tạo được sắc tâm vì đây là trường hợp đặc biệt, tâm của vị ấy đã hoàn toàn đoạn tận phiền não nên tâm tử không thể tạo sắc nghiệp được. Còn đối với các chúng sanh khác thì tâm tử vẫn tạo được sắc nghiệp.
Ðiều đáng ghi nhớ là 75 tâm tạo được sắc tâm phải tạo vào thời điểm sát-na sanh (uppaadakha.na), tới sát-na trụ và Diệt thì chúng đã trở nên yếu đuối không thể tạo sắc tâm được đó là quy luật.
3) Utusamu.t.thaana: (đã giải ở trước)
4) Aahaarasamu.t.thaana: sinh tố mà giúp sắc vật thực sanh khởi không nằm hẳn trong món ăn nào, kể cả các loại thuốc vitamin để chích, uống hay thoa ngoài da cũng đều có oja (sinh tố), và đều có th? tạo sắc vật thực, nguồn oja là bên ngoài được gọi là bahiddhojaa (sinh tố ngoại viện trử lượng oja bên trong cơ thể được gọi là ajjhattojaOja bên ngoài thì đã giải rồi còn oja bên trong thì có 2 thứ: kamma-ojavà utuja-ojaa, cả 2 thứ này đều sinh khởi trong cơ thể chúng sanh.
Nguồn oja ngoại viên (bahiddhoja) có nhiệm vụ trợ sanh sắc vật thực nên được gọi là janasatti. Còn trử lượng oja bên trong (ajjhattoja) có nhiệm vụ hổ trợ, trưởng dưỡng sắc vật thực cho lớn mạnh nên được gọi là upatthambhana kasathi. Trong chức năng trưởng dưỡng sắc vật thực, kammaja-oja quan trọng hơn utuja-oja.
Visuddhimagga-atthakathaa ghi rằng ở cõi người khi được ăn uống đầy đủ thì có thể nhịn ăn trong 1 tuần, cơ thể vẫn không hề hấn gì. Ở cõi chư thiên thì một bữa ăn có thể nuôi sống trọn 1 tháng hoặc 2 tháng. Ðó là nhờ oja trong các món ăn bồi bổ cho kammaja-oja bên trong nên thời gian nhịn ăn mới có thể kéo dài được như vậy và trong suốt thời gian đó sắc vật thực trong cơ thể vẫn được tạo ra liên tục. Còn đối với thai bào trong bụng mẹ vào 2, 3 tuần lễ đầu tiên chỉ mới ở dạng một miếng nhầy (abbuda) hoặc một hòn thịt (pesii) chưa bú nhau được nhưng nhờ các thức ăn mà bà mẹ dùng vào truyền sinh tố sang để nuôi dưỡng nên sắc vật thực cũng sanh lên đối với nó được.
Trong Muulapa.n.naasaka-atthakathaa ghi rằng: "theo quy luật, một miếng vật thực khi vừa được ngậm vào miệng cũng có thể tạo bọn sắc vật thực. Khi đã được nhai nuốt rồi thì ojatrong một miếng thực phẩm nhỏ cũng đủ tạo bọn sắc vật thực"
Ðiều này cho thấy rằng sắc vật thực luôn sinh khởi trong cơ thể chúng sanh trọn một kiếp sống, một cách liên tục.
* Ðiều đặc biệt cần nhớ là sắc tứ tướng không có nhân sanh, chúng chỉ là từng giai đoạn biến thái của các sắc mà thôi. Như trong Abhidhammatthasangaha, Ngài Anuruddha đã ghi:
Jaayamaanaadiruupaana.m
Sabbaavattaa hi kevala.m
Lakkhanaani na jaayanti
Kehiciiti pakaasita.m.
-ooOoo-
PHÂN SẮC NGHIỆP CỐ ÐỊNH (ekanta) VÀ BẤT ÐỊNH (anekanta)

- 5 thần kinh, 2 sắc giới tính, ý vật, mạng quyền: 9 sắc nầy là sắc nghiệp cố định.
- 8 bất ly, giao giới: 9 sắc nầy là sắc nghiệp bất định.
Gọi là sắc nghiệp cố định và các sắc ấy chỉ sanh ra do nghiệp quá khứ mà thôi và chúng chỉ có trong cơ thể chúng sanh. Gọi là sắc nghiệp bất định là vì các sắc ấy có thể sanh trong cơ thể chúng sanh mà cũng có thể xuất hiện trong các vô sinh vật và một lý do nữa là các sắc ấy có thể được tạo ra do nhiều nhân sanh khác chớ không hẳn chỉ riêng nghiệp.
SẮC TÂM CỐ ÐỊNH VÀ BẤT ÐỊNH
Sắc tâm có được 15 sắc, trong chỉ có 2 biểu tri là thành phần cố định riêng 13 sắc còn lại là thành phần bất định.
Sở dĩ nói thế vì mọi cử động của thân, mọi diễn xuất của khẩu đều do danh pháp tác động và chỉ có danh pháp mới làm được việc ấy. Ðó là lý do tại sao 2 biểu tri được kể là sắc tâm cố định.
Còn 13 sắc kia, được kể là sắc tâm bất định bởi chúng có thể được trợ sanh bằng nhiều điều kiện khác ngoài danh pháp như đối với sắc cảnh thinh chẳng hạn, nếu là tiếng người tiếng thú thì cũng phải do 2 nhân trợ sanh: Tâm và quí tiết; nếu là những tiếng động phát ra từ những vật vô tri như tiếng xe, tiếng gió thổi, tiếng nước chảy... thì là do quí tiết làm diều kiện trợ sanh.
3 sắc kỳ dị (khinh, nhu, thích nghiệp) trong thân đôi khi do tâm sanh, do quí tiết sanh, hoặc do vật thực tạo nên như khi thân thoải mái thì cơ thể có cảm giác nhẹ nhàng, linh hoạt, uyển chuyển. Hoặc những khi thời tiết, khí hậu tốt đẹp hay do thức ăn thích hợp thì cơ thể cũng có đủ những cảm giác trên. 3 sắc kỳ dị luôn đi chung nhau và chỉ có trong cơ thể sinh vật mà thôi.
Còn 8 bất ly và giao giới đều là những sắc tâm bất định với những lý do giống như ở các sắc nghiệp bất định (xem ở trước).
13 SẮC QUÍ TIẾT
13 sắc sau đây: sắc cảnh thinh, 3 kỳ dị, 8 bất ly và giao giới đều là sắc quí tiết nhưng bất định. Ðối với sắc quí tiết không có cái nào là cố định cả. Bởi 13 sắc này khi thì được nhân nầy trợ sanh, khi thì được nhân nọ trợ sanh.
12 SẮC VẬT THỰC
12 sắc vật thực (3 kỳ dị, 8 bất ly, giao giới) chỉ có trường hợp bất định chớ không có cố định.
Còn 4 sắc tướng (lakkhana) thì không có nhân sanh, chúng chỉ là bản thái của 18 sắc Nipphanna trong từng giai đoạn khi 18 sắc ấy được 1 trong 14 nhân nọ trợ sanh rồi thì tự trong chúng đã có 4 sắc tướng đi kèm bằng cách hiển hiện qua sự sanh, trụ, diệt. Như đối với con người thi cũng có 4 chặn diễn biến trong một kiếp sống : trước hết là lúc chào đời, kế đó là giai đoạn trưởng thành, rồi tiếp theo là giai đoạn về già, cuối cùng là cái chết. 4 giai đoạn đổi thay, chuyển biến này gắn liền với thân xác con người. Qua thân xác con người, những biến thái đó được hiển hiện, không có cơ thể chúng sanh thì 4 giai đoạn này không hiển hiện được ở đây cũng thế, 4 sắc tướng phải dựa trên 18 sắc Nipphanna mà được gọi tên, từng biến thái của 18 sắc nầy được gọi là sanh hay tiến, dị hay diệt chính vì vậy 4 sắc Tướng là những sắc không có nhân sanh như những sắc khác chúng còn được gọi là Nakutocisamu.t.thaanikaruupa (những sắc không có yếu tố trợ sanh).
Sắc pháp kể theo yếu tố trợ sanh:
1) Ekasamu.t.thaanikaruupa: sắc có một yếu tố trợ sanh: gồm 11 sắc: 5 sắc thần kinh, 2 sắc giới tính, ý vật, mạng quyền. 9 sắc này chỉ do Nghiệp tạo
2 Biểu tri cũng do một nhân trợ sanh đó là Tâm.
2) Dvisamu.t.thaanikaruupa: Sắc có 2 yếu tố trợ sanh: Sắc cảnh thinh có khi do tâm trợ sanh, có khi do quí tiết trợ sanh.
3) Tisamu.t.thaanikaruupa: Sắc do 3 yếu tố trợ sanh: gồm 3 kỳ dị, 3 sắc này được Tâm, Quí tiết, vật thực trợ sanh.
4) Catusamu.t.thaanikaruupa: Loại sắc có 4 yếu tố trợ sanh: gồm 9 sắc: 4 dại hiển, sắc cảnh sắc, sắc cảnh khí, sắc cảnh vị, vật thực, giao giới. 9 sắc nầy do 4 yếu tố: Nghiệp, tâm, quí tiết, vật thực trợ sanh mà hiện khởi.
5) Nakutocisamu.t.thaanikaruupa: Sắc không có yếu tố trợ sanh: 4 sắc tướng.
SẮC PHÁP TRONG CƠ THỂ CHÚNG SANH
Mọi cơ thể sai biệt của người và thú đều lấy sắc nghiệp làm yếu tố trợï sanh cơ bản, các loại sắc khác đóng vai trò hổ trợ cho hoàn chỉnh hơn. Nếu không có sắc nghiệp làm yếu tố cơ bản, thì thân xác chúng sanh có gì khác gỗ đá. Các sắc đóng vai trò hổ trợ ở đây là 4 loại sắc quí tiết và sắc vật thực.
4 loại sắc quí tiết đó là:
1) Kammapaccaya-utujaruupa: Sắc quí tiết do nghiệp trợ.
2) Cittapaccaya-utujaruupa: Sắc quí tiết do tâm trợ.
3) Utupaccaya-utujaruupa: Sắc quí tiết do quí tiết trợ.
4) Aahaarapaccaya-utujaruupa: Sắc quí tiết do vật thực trợ.
Do sắc quí tiết có 4 loại như vậy nên cơ thể của chúng sanh lúc nào cũng có sắc quí tiết, thậm chí tới lúc chỉ còn là một xác chết, sắc quí tiết vẫn tiếp tục kéo dài thời gian có mặt. Riêng về sắc nghiệp và sắc vật thực thì chỉ có mặt trong thời gian chúng sanh còn sống. khi chúng sanh đã chết thì chúng cũng chấm dứt theo.
Nói về sắc tâm thì không bao giờ đi một mình, nó phải nương 3 loại sắc kia (nghiệp, quí tiết, vật thực) mà sinh khởi nghĩa là phải có cơ thể, chúng sanh mời có sắc tâm, bằng không thì thôi . Sắc tâm có tất cả 7 thứ:
1) Sắc tâm thông thường: như hơi thở ra vào.
2) Sắc tâm trong việc cười.
3) Sắc tâm trong việc khóc.
4) Sắc tâm trong các việc tiểu oai nghi.
5) Sắc tâm trong việc phát triển, nói chuyện.
6) Sắc tâm trong 4 đại oai nghi.
7) Sắc tâm trong việc kiềm giữ thăng bằng của 4 đại oai nghi.
7 loại sắc tâm này nếu tính theo chi pháp thì có 15; trong 15 sắc tâm đó, sắc mà hiển lộ cụ thể chỉ có 10: sắc (va.n.na), thinh, xúc (đất, lữa, gió), 5 đặc biệt (vikaara - kỳ dị). 5 sắc tâm còn lại là nước, khí, vị, vật thực, giao giới thì không hiển lộ cụ thể.
Loại tâm tạo 7 thứ sắc tâm:
1) Có 75 tâm tạo được sắc tâm.
2) có 13 tâm tạo được sắc tâm lúc cười: 4 tham hỷ thọ, tâm sinh tiếu, 4 đại thiện hỷ thọ, 4 đại tố hỷ thọ
3) Có 2 tâm tạo được sắc tâm "khóc", 2 tâm sân.
4) Có 32 tâm điều khiển tạo ra tiểu oai nghi: khai ý môn, 29 đổng lực dục giới, 2 tâm thông.
5) Có 32 tâm giúp miệng nói, đọc: cũng là 32 tâm trên.
6) 32 tâm trên cũng điều khiển 4 đại oai nghi.
7) Có 58 tâm kiềm giữ thăng bằng 4 đại oai nghi: khai ý môn, 29 đổng lực dục giới, 2 tâm thông, 26 đổng lực kiên cố.
Ðúng ra, 2 tâm thông cũng nằm trong đổng lực kiên cố nhưng sở dĩ ở đây được kể riêng ra là vì khi nào 2 tâm đổng lực ngũ thiền sắc giới không đóng vai trò tâm thông thì tác năng của chúng lại khác, khi nào chúng làm việc hòa thông thì tác năng đó lại khác nữa, cho nên ở đây phải kể 2 tâm thông riêng.

Kalaapa là bọn, nhóm, cụm; vậy Ruupakalaapa là cụm sắc, bọn sắc, nhóm sắc.
Trong bọn sắc có nhiều sắc phối hợp nhau, các sắc ấy có 3 điểm tương đồng (sahavutti) với nhau:
Ekuppaada: đồng sanh.
Ekanirodha: đồng diệt.
Ekanissoya : đồng nương 4 đại như nhau: những sắc nào tương đồng nhau trên 3 điểm như thế mới được gọi là một Ruupakalaapa.
Có tất cả 23 nhóm sắc: 9 nhóm sắc nghiệp, 8 nhóm sắc tâm, 4 nhóm sắc quí tiết, 2 nhóm sắc vật thực, như trong Abhidhammattha Sangaha , Ngài Anuruddha cũng đã ghi :
Kammacittatukaahaara
Samu.t.thaanaa yathaakkamam
Nava.t.tha caturo dveti
Kalaapaa hi teviivati.
23 sắc này nếu tính theo chi pháp, gồm có 23 sắc thôi bởi trừ ra giao giới và 4 sắc tướng. Giao giới chỉ là khoảng cách giữa các nhóm sắc, 4 sắc tướng chỉ là từng giai đoạn biến thái của các nhóm sắc nên không có chi pháp hẳn hoi. Như trong Abhidhammattha Sangaha, Ngài Anuruddha đã xác nhận:
Kalaapaana.m paricchede
Lakkha.nattaa vicakkha.naa
Na kalaapangamiccAahu
Aakaasa.m lakkha.naani ca.
Trong 9 nhóm sắc nghiệp nếu kể theo chi pháp hẳn hoi thì chỉ có 17 sắc (không tính giao giới). 9 bọn sắc nghiệp chỉ có đối với loài sinh vật (Jiivita) thôi và trong mỗi người chỉ có 8 bọn sắc nếu là nam thì không có nhóm sắc nữ giới tính, nếu là nữ thì không có nhóm sắc nam giới tính (hay có thể gọi là nhóm sắc tố nam). 8 nhóm sắc nghiệp ở đây chỉ cho sắc nghiệp thuần túy chớ chưa kể đến nhóm sắc quí tiết do nghiệp trợ (Kammapaccaya - utujaruupakalaapa). Nghĩa là trong 9 nhóm sắc nghiệp cũng có tejodhaatu (sắc hỏa giới) nhưng đó là do nghiệp trợ sanh nên sắc hoả giới đó ở đây vẫn được gọi là kammajaruupa (sắc nghiệp). Còn sắc quí tiết do nghiệp trợ thì dù sao cũng không là sắc nghiệp thuần túy, chính thống nên không được kể chung vào các nhóm sắc nghiệp, nó phải nằm bên phần sắc quí tiết mới đúng.
Những bộ phận trong cơ thể chúng sanh như tóc, lông, móng, răng đều là những sắc quí tiết nhưng điểm cần nhớ là trong công trình tạo ra các bộ phận cơ thể đó, sắc quí tiết do nghiệp trợ (kammapaccaya-utujaruupa) luôn ở vị trí chủ yếu, còn 3 thứ sắc quí tiết còn lại thì đóng vai trò phụ thuộc sự có mặt của chúng mỗi bậc, nhất là khi chúng sanh đã chết, sắc nghiệp, sắc tâm, sắc vật thực đã chấm dứt sinh hoạt, lúc bấy giờ chỉ còn lại 4 thứ sắc quí tiết. Do đó mới nói rằng trong mỗi người có nhiều lắm cũng chỉ 8 bọn sắc nghiệp thôi.
9 BỌN SẮC NGHIỆP PHÂN BỐ TRÊN THÂN
Thân thể con người được chia ra 3 phần:

1) Uparimakaaya: phần trên: kể từ cổ lên đầu.
2) Majjhimakaaya: phần giữa: từ cổ xuống lổ rún.
3) Hetthimakaaya: từ rún xuống chân.
* Ở phần thượng thân có được 7 bọn sắc nghiệp:

- Cakkhudasakalaapa.
- Sotadasakalaapa.
- Ghaanadasakakalaapa.
- Jivhaadasakakalaapa.
- Kaayadasakakalaapa.
- Bhaavadasakakalaapa.
- Jiivitanavakakalaapa
.
* Ở phần hạ thân có được 3 bọn sắc nghiệp:

- bọn thân,
- bọn giới tính,
- bọn mạng quyền.
-ooOoo-
Sắc tâm có 2 nhánh: Muulakalaapa và Muuliikalaapa.
Nhánh Muulakalaapa có 4 nhóm:
1) Suddha.t.thakakalaapa: 8 bất ly.
2) Saddanavakalaapa: 8 bất ly, cảnh thinh.
3) Kaayavi~n~nattinavakakalaapa: 8 bất ly và thân biểu tri.
4) Vaciivi~n~nattisaddadasakalaapa: 8 bất ly, khẩu biểu tri và cảnh thinh.
Nhánh Muuliilalaapa có 4 nhóm:
1) Lahutaadi-ekaadasaka-kalaapa: 8 bất ly, 3 kỳ dị.
2) Saddalahutaadidvaadasaka-kalaapa: 8 bất ly, cảnh thinh, 3 kỳ dị.
3) Kaayavinnattilahutaadidvaadasak-akalaapa: 8 bất ly, thân biểu tri, 3 kỳ dị.
4) Vaciivi~n~nattisaddalahutaaditerasaka-kalaapa: 8 bất ly, khẩu biểu tri, cảnh thinh, 3 kỳ dị.
Thích giải:
Theo Cisuddhinagga-attha-kathaa thì giải có 8 nhóm sắc tâm như vậy nhưng trong Abhidhammattha Sangaha thì Ngài Anuruddha chỉ nêu 6 nhóm thôi, tức là trừ ra nhóm cảnh thinh (saddanavaka-kalaapa) với nhóm thinh kỳ dị (saddalahutaadidvaadasaka-kalaapa). Và nhóm sắc tâm này nếu nói theo chi pháp là 14 sắc tâm (trừ giao giới). Các nhóm sắc tâm chỉ có đối với loài sinh vật (Jiivita).
1) Nhóm sắc suddha.t.thakakalaapa có mặt trong những lúc thân không cửû động, khẩu không phát biểu, trong những khi tâm yếu đuối không tích cực, năng động, nhóm sắc này là hơi thở ra vào, bản tướng hiển hiện qua sự phồng xộp. Khi tâm buồn phiền thì bản tướng của nhóm sắc này là nét mặt dủ dột, héo hắt khi tâm sợ hãi cái gì thì nhóm sắc này là sự nổi óc, rợn gáy, lạnh lưng, hay tóc lông dựng ngược... cứ thế mà suy diễn.
2) Nhóm saddanavakakalaapa có mặt khi có tiếng động phát ra từ thân mà không do khẩu tác động, hoặc có mặt khi tâm yếu đuối, thối thất, thụ động, tiêu cực. Tiếng động ở đây chẳng hạn như là tiếng ngáy, tiếng ho, tiếng nghiến răng tiếng các khớp xương co giản...
Khi có 3 kỳ dị cùng sanh chung thì nhóm sắc này được gọi là nhóm thinh kỳ dị (saddalahutaadidvaadasakakalaapa) và nhóm thinh kỳ dị này có mặt khi tâm được vui vẽ hay năng động, tích cực. Dạng hiển hiện của nhóm thinh kỳ dị cũng có thể là những tiếng động như ở nhóm thinh nhưng trong trẻo hơn và nếu là những tiếng ù ờ cũng dễ nghe và dễ hiểu, thay vì tiếng ù ờ thiếu kỳ dị thì nghe không rõ ràng, không trong trẽo.
3) Nhóm kaayavi~n~nattinavakakalaapa có mặt qua những cử động nhỏ nhặt không thường xuyên của thân thể trong lúc tâm yếu đuối, không tích cực, năng động như việc ngồi, nằm, đứng, đi, co duỗi, dở bước đạp... nói chung những cử động không cần tới sự nổ lực bao nhiêu. Ðó là dạng hiển hiện của nhóm sắc này.
Khi có 3 kỳ dị cùng sanh chung thì nhóm sắc nầy được gọi là kaayavinnattilahutaadidvaadasakakalaapa và thường hiện khởi trong những lúc tâm tư vui vẽ,năng động chúng cũng là những oai nghi trên nhưng có tổ chức hơn.
4) Nhóm vaciivinnattisaddadasakakalaapa có mặt khi ta nói chuyện, đọc sách, tụng kinh mà tâm tư thiếu vui tươi hay không năng động tích cực. Khi có 3 kỳ dị cùng sanh thì nhóm này được gọi là vaciivinnattisaddalahutaaditarasakakalaapa và thường xuyên có mặt trong thời bình nhật (paakati) hoặc vào những khi tâm vui vẽ năng động, chúng cũng là những lời tụng đọc, những câu nói thôi nhưng thuận hoạt, trôi chảy hơn.
- Phần thượng thân (uparimakaaya) là vị trí có mặt của cả 8 nhóm sắc tâm.
- Phần trung thân (majjhimakaaya) và hạ thân (he.t.thimakaaya) là vị trí có mặt của 4 nhóm sắc tâm nhóm bất ly (suddha.t.thakakalaapa), nhóm thân biểu tri, nhóm kỳ dị, nhóm thân biểu tri kỳ dị (kaayavi~n~nattilahutaadidvaa- dasakakalaapa).
Sắc quí tiết có 2 nhánh muulakalaapa và muulikalaapa .
Nhánh Muulakalaapa gồm có 2 nhóm sắc:
1) Suddha.t.thakakalaapa: 8 bất ly.
2) Saddanavakakalaapa: 8 bất ly, cảnh thinh.
Nhánh Muuliikalaapa cũng gồm có 2 nhóm sắc.
1) Lahutaadi-ekaadasakakalaapa: 8 bất ly, 3 kỳ dị.
2) Saddalahutaadidvaadasakakalaapa: 8 bất ly, cảnh thinh, 3 kỳ dị.
Thích giải:
4 nhóm sắc quí tiết nếu tính theo chi pháp thì có 12 sắc (trừ giao giới) cơ thể chúng sanh luôn có đủ 4 nhóm sắc quí tiết này, riêng về những vô sinh vật thì chỉ có 2 nhóm quí tiết thôi đó là nhóm bất ly và nhóm Thinh (saddanavakakalaapa).
1) Nhóm thuần bất ly chính là cơ thể chúng sanh, nó làm chỗ nương cho các loại sắc khác, nếu không có nhóm sắc này thì các nhóm sắc nghiệp, sắc tâm, sắc vật thực không thể hiện khởi được. Nhóm thuần bất ly nầy thường sinh khởi nơi cơ thể trong thời điểm hoạt động.
Khi có 3 kỳ dị cùng đi chung thì nhóm thuần bất ly sẽ được gọi là lahutaadi-ekadasakakalaapa tức là cơ thể trong tình trạng hoạt động.
2) Nhóm Thinh (saddanavakalaapa) chính là một tiếng động nào đó được thân tạo ra như tiếng sôi ruột, tiếng cọ tay hay tiếng ngáy... những tiếng rời rạc, mơ hồ, vô tổ chức.
Khi có 3 kỳ dị cùng sanh chung thì nhóm này được gọi là saddalahutaadidvaadasaka-kalaapa, cũng là những âm thanh phát ra từ thân như trên nhưng rõ ràng, dứt khoát hơn.
Ðối với những vật vô tri thì sự hiện diện của sắc quí tiết như sau:
1) Nhóm thuần bất ly là núi non, sông ngòi, gió, lữa, nước, mặt trăng, mặt trời, tinh tú, bóng râm...
2) Nhóm thinh là tiếng gió, tiếng sét, tiếng đá lỡ, đất sụp, tiếng chuông trống...
3 kỳ dị không bao giờ có đối với vật vô tri.
SẮC VẬT THỰC
Sắc vật thực cũng có 2 nhánh: muulakalaapa và muliikalaapa.
Nhánh I chỉ có một nhóm thuần bất ly (suddha.t.thakakalaapa) thôi, nhánh II là nhóm kỳ dị (lahutaadi-ekaadasakakalaapa): 8 bất ly + 3 kỳ dị.
Tính trên chi pháp chặt chẻ thì có 2 nhóm sắc vật thực trên đây chỉ gồm có 12 sắc thôi (trừ giao giới) và chúng chỉ sanh trong cơ thể chúng sanh. Sau đây là qui trình sinh diễn của sắc vật thực.
1) Nhóm thuần bất ly của sắc vật thực hiện khởi khi nào cơ thể được tiếp nhận một món ăn hay loại thuốc men nào đó, như ở trước đã nói, bọn thuần bất ly chỉ có mặt khi cơ thể đang ở trong tình trạng tiêu cực, thiếu hoạt động.
2) Nhóm kỳ dị, cũng sinh ra khi cơ thể được tiếp dưỡng bằng thuốc men hay vật thực ngoại, nhưng chúng chỉ có mặt khi cơ thể cử hoạt động, nói rộng hơn là đang ở tình trạng năng động. Tóm lại thuần bất ly cũng là sắc vật thực nhưng thiếu sự cộng tác của 3 kỳ dị. Còn 3 kỳ dị cũng là sắc vật thực nhưng chúng có kết hợp.
2 nhóm sắc vật thực này không có đối với giống vô sanh vật bởi vì sắc vật thực phải luôn dựa vào kammaja-oja để sinh ra. Kammaja-oja luôn làm điều kiện (upakaara) cơ bản cho vật thực ngoại (bahiddhoja), nguồn sinh tố từ các thức ăn bên ngoài như vậy đối với những thực phẩm chưa được ăn thì chất dinh dưỡng trong chúng chỉ là sắc quí tiết chớ không phải là sắc vật thực chẳng hạn như cây cối được phát triển, trổ hoa ra quả nhờ nương vào đất, nước, phân bón đó làm sắc vật thực cho cây nhưng kỳ thực trong trường hợp nầy những cái đó chỉ đóng vai tròsắc quí tiết chớ không phải là sắc vật thực bởi vì cây cối không có ăn các chất đó như chúng ta ăn thực phẩm, chúng chỉ hấp thụ thôi, chỉ hút các dưỡng tố đó qua củ, rể của mình. Nếu nói theo thông thường thì đó cũng là một hình thức ăn" nhưng theo thực tính chân đế thì không phải như thế, đó là nói theo vohaarasammuti (từ ngữ tục đế) thôi.
A.t.thaviisati kaamesu
Honti teviisa ruupiisu
Sattasasevasa~n~niina.m
Aruupe natthi ki~ncipi
? cõi dục có đủ 28 sắc pháp. Ở cõi sắc hữu tưởng chỉ có 23 (mũi, lưỡi, thân và 2 sắc tính). Ở cõi vô tưởng có 17 sắc (trừ 5 thần kinh, cảnh thinh, 2 sắc giới tính, ý vật, 2 biểu tri).
- Nói tổng quát thì ở cõi Dục có đủ 28 sắc nhưng nếu phân tách riêng ra nhiều trường hợp thì dĩ nhiên không phải như vậy. Ðối với nữ nhân thì không có sắc nam tính, ngược lại nam nhân thì không có sắc nữ tính. Hoặc khi bị tàn tật mất một giác quan nào đó thì 5 sắc thần kinh cũng không có đủ.
- 15 cõi sắc giới hữu tưởng không có thần kinh tỷ, thiệt, thân cùng 2 sắc giới tính vì 5 sắc này chỉ có ý nghĩa khi hưởng dục thôi, mà ở cõi sắc giới thì coi như đã ly khai các dục nên không thể có 5 sắc này nơi 1 phạm thiên sắc giới. Nói về 2 thần kinh nhãn nhĩ, sở dĩ ở cõi sắc giới hữu tưởng vẫn có là vì 2 cơ quan mắt tai không phải chỉ được xài trong việc hưởng dục, mà chúng còn có nhiều lợi ích hướng thượng khác nếu biết sử dụng như mắt còn có thể chiêm bái Thánh Nhân tai còn có thể nghe Chánh Pháp. Mà 2 việc này vị phạm thiên có thể làm được nên ở cõi ly dục đó thần kinh nhãn nhĩ mới đủ lý do để có mặt.
- Ở cõi vô tưởng chỉ có 17 sắc: 8 bất ly, giao giới, mạng quyền, 3 kỳ dị, 4 sắc tướng. Vì các phạm thiên vô tưởng không có tâm thức nên những sắc làm sở y cho tâm (như 5 thần kinh) không có trên đây. Còn 2 sắc tính là những sắc tạo điều kiện cho tham dục tích cực nhất, mà ở vị phạm thiên vô tưởng thì việc hưởng dục làm sao có được nên sắc tính dĩ nhiên không có.
Ðối với Phạm thiên cõi vô sắc là những vị đã trải qua quá trình tu tập thiền định vô sắc, một cấp thiền ly tham trong sắc (Ruupaviraagabhaavanaa). Nhàm chán trong sắc thì làm sao lại có thể còn sắc!
? cõi dục giới có 28 sắc pháp. 28 sắc pháp nếu nói rộng thì thành 74 sắc bởi vì có 18 sắc nghiệp, 15 sắc tâm, 13 sắc quí tiết và 12 sắc vật thực. Cộng 4 con số này lại ta có được 58 sắc như ta biết, sắc pháp có 4 loại vì dựa theo nhân sanh của chúng. Trong mỗi loại ấy ta cộng thêm 4 sắc tướng vào, vậy thành ra có đến 16 sắc tướng. Ta lấy 16 nhân với 58 sắc kể trên thì thành ra 74 sắc.
Trên cõi sắc giới hữu tưởng có được 23 sắc pháp. Nếu tính theo loại sắc thì chỉ có 3 loại (trừ ra sắc vật thực) vì chư Phạm Thiên không có ăn uống như Nhân Loại hay Chư Thiên cõi dục giới, các vị chỉ sống bằng pháp hỷ (jaati) thôi.
Trong 3 loại sắc còn lại ấy, sắc nghiệp chỉ có 13 (trừ 3 thần kinh tỷ, thiệt, thân cùng 2 sắc tính) sắc tâm trên đó vẫn đủ số 15, sắc quí tiết vẫn 13. Ta cộng 3 con số này lại thành ra 41 rồi trong mỗi loại sắc ta kể vào đó thêm 4 sắc tướng, 4 sắc tướng nhân với 3 loại sắc thì ra 12 sắc tướng, 12 sắc tướng cộng với 4 sẽ cho ra 53 sắc. Vậy nếu nói hẹp thì ở cõi sắc giới hữu tưởng có 23 sắc nếu kể rộng thì có 53.
Ở cõi vô tưởng chỉ có 7 sắc pháp nếu tính theo loại thì chỉ có 2: sắc nghiệp và sắc quí tiết. Vì chúng sanh vô tưởng không có tâm thức nên họ không có sắc tâm còn sắc vật thực cũng không có. Ðó là quy luật trên ấy.
Sắc nghiệp ở cõi vô tưởng có 10 là 8 bất ly, giao giới, mạng quyền, sắc quí tiết trên đó có 12 (trừ thinh). Vậy tổng cộng lại là 22 sắc, kể thêm 8 sắc tướng đi với chúng nữa là 30. Ðó là tính rộng. Tính hẹp có 17 thôi.
Chú thích:
Ðúng ra lấy 4 sắc tướng cộng vào với mỗi loại sắc đó là tính tổng quát (như 18 sắc nghiệp cộng sắc tướng thì thành 22 sắc nghiệp, 15 sắc tâm cộng với 4 sắc Tướng thành ra 19...) nếu đem 4 sắc tướng cộng vào với từng sắc Nipphanna thì mới cặn kẽ. Tức là có tất cả 17 sắc Nipphanna (trừ giao giới), Mỗi sắc Nipphanna đều có 4 sắc tướng đi kèm. Vậy có tất cả 68 sắc tướng (17 x 4). Lấy 68 này cộng với 18 sắc nghiệp thì thành ra có đến 86 sắc nghiệp.
Trong 15 sắc tâm có được 9 sắc Nipphanna: 8 bất ly và thinh (saddaruupa) trong 9 sắc này mỗi cái đều có 4 sắc tướng đi kèm, thành ra có tới 36 sắc tướng. Lấy 36 này cộng với 15 sắc tâm.
Trong 13 sắc quí tiết có được 9 sắc Nipphanna như trên, và mỗi cái trong 9 sắc đó cũng đều có 4 sắc Tướng đi kèm thế là cũng có 36 sắc tướng trong sắc quí tiết. Lấy 36 này cộng với 13 sắc quí tiết thì thành ra có tới 49 sắc quí tiết
Trong 12 sắc vật thực có được 8 sắc Nipphanna, ta cộng 4 sắc Tướng vào với từng sắc Nipphanna sẽ cho ra 32 sắc Tướng. Lấy 32 này cộng với 12 thì thành ra sắc vật thực có đến 44.
-ooOoo-
Trong thời tái tục (patisandhikaala: uppaadakkhana của patisandhicitta) luôn vắng mặt 8 sắc : Thinh: 5 kỳ dị, dị và diệt. Trong thời bình nhật thì sắc nào cũng có mặt.
Nói theo thực tính pháp thì sát-na sanh của tâm tái tục được gọi là pa.tisandhikaala (thời tái tục), từ sát-na trụ của tâm tái tục trở đi cho đến sát-na trụ của tâm tử được gọi là thời bình nhật (pavattikaala). Sở dĩ trong thời tái tục không có 8 sắc kể trên là vì trong thời điểm đó thân khẩu của chúng sanh chưa hoạt động, nói năng gì được thân xác chúng sanh lúc đó hoàn toàn trong tình trạng tiêu cực tối đa, lại nữa trong sát-na sanh của tâm tái tục sắc chưa có dấu hiệu biến suy, cằn cỗi nên cũng không có dị và diệt, về điều này ta có thể hiểu như một nồi cơm mới vừa đặt lên bếp chưa ấm nồi thì làm sao có thể sôi tim hay kêu nồi gì được.
Trong Abhidhammattha Sangaha ghi rằng thời tái tục chỉ thiếu 8 sắc. Xem câu đó ta dễ hiểu lầm rằng trong 20 sắc còn lại có đủ 4 loại sắc: nghiệp, tâm, quí tiết, vật thực, kỳ thật trong lúc tái tục chỉ có sắc nghiệp, còn 3 loại sắc kia chỉ sanh ra trong thời bình nhật mà thôi, 20 sắc nghiệp ở đây là: 5 sắc thần kinh, 2 sắc giới tính, ý vật, mạng quyền, 8 bất ly, giao giới, sinh, tiến.
Theo Abhidhammattha Sangaha thì trong thời tái tục chỉ vắng mặt 8 sắc, nhưng theo atthakathaa và .tiikaa thì có tới 9 sắc vắng mặt trong thời tái tục là trừ thêm TIẾN (santati). Vậy theo các tài liệu đó thì vào thời tái tục chỉ có 19 sắc mà thôi.
Còn trong thời bình nhật thì 28 sắc pháp hiện khởi đầy đủ, nói theo loại thì đủ cả 4 loại, nói theo bọn thì đủ cả 9 bọn. Ðiều cần nhớ là không phải đối với chúng sanh nào trong thời tái tục cũng có đủ 9 bọn sắc nghiệp, bởi vì điều đó còn phải tùy vào sinh thú và sanh loại.
Tất cả chúng sanh chỉ nằm trong 3 hoặc 4 sanh loại sau đây:
1) Samsedajayoni: thấp sanh, giống hữu tình sinh ra từ môi trường ẩm thấp hay từ một vật chất vô sinh nào đó.
2) Opapaatikayoni: hóa sanh, giống hữu tình tự nhiên hiện ra, không dựa vào môi trường vật chất nào cả và sự xuất hiện đó diễn ra tựa như từ trên trời rơi xuống vậy.
3) Gabbhaseyyakayoni: thai sanh giống chúng sanh sinh ra từ quá trình thụ kết thai bào của động vật giống cái, nếu nói rộng sanh loại này còn được chia ra 2 nhánh:
a) Andajayoni: noãn sanh, sanh ra trong dạng trứng.
b) Jahaabujayoni: sinh ra trực tiếp từ sản môn (và mang sẳn hình dáng của mình).
QUÃNG THÍCH:
1) Loài hữu tình thấp sanh là loại chúng sanh sinh ra do điều kiện hấp thụ thiên nhiên, không do quá trình kết hợp tính giao của động vật (dù người hay thú) có thể chúng sinh ra từ máu mủ, cây cối, trái cây, bông hoa... như nàng Ci~ncaanaanavikaa đã sinh ra từ cây me, nàng Ve.luvatii sanh ra từ cây tre, nàng Padumavatii sinh ra từ hoa sen, 499 đứa con trai của nàngPadumavatii (mà sau đó trở thành những vị Ðộc Giác) đã sinh ra từ sản huyết, hoặc như các loài côn trùng, sâu bọ sanh ra từ những môi trường tự nhiên. Giống thấp sanh cũng trưởng thành chậm như thai sanh.
2) Loài hóa sanh nhờ nghiệp quá khứ mà sanh ra một cách thình lình, và hình dáng hoàn chỉnh ngay lúc đó chớ không phải phát triển từ từ như các giống hữu tình kia. Chúng sanh thuộc chủng loại này gồm có người ở địa ngục Chư Thiên, Phạm Thiên, người thời sơ kiếp (nhân loại trong thời điểm địa cầu mới hình thành).
3) Loài noãn sanh là giống hữu tình sinh ra từ bụng mẹ nhưng trong dạng trứng. Sau khi trứng nở mới từ đó chun ra và lớn lên theo thời gian giống noãn sanh gồm có những loài tiêu biểu như chim chóc, gà, vịt, rồng, rắn ... Ðối với nhân loại cũng sanh ra trong dạng trứng như trường hợp hai anh em vị trưởng lão nọ trong chú giải pháp cú kinh, hai vị này là con của một cinnara (nhân điểu: giống chim đầu và mình như người nhưng chân chim, có cánh bay được). Hai vị khi mới được sinh ra chỉ là 2 cái trứng rồi sau đó trứng nở. Lớn lên cả 2 anh em họ đều đi xuất gia.
4) Giống bào sanh (tử cung sanh) là những chúng sanh được cưu man trong bụng mẹ với hình dáng sẳn có của mình như nhân loại và loài bàng sanh nào đó.

Niraye bhummavajjesu
Devesu ca na yoniso
Tisso purimikaa honti
Catassa pi gatittaye
(Sammohavimodanii-atthakathaa)
QUÃNG THÍCH:
Các loài sau đây: chúng sanh địa ngục, Chư thiên trong 6 cõi Dục thiên (trừ ra hạng địa cư thiên: bhumma.t.thadeva), loài ngạ quỉ Nijjhaamata.nhika và Phạm thiên sắc giới đều thuộc giống hóa sanh.
Còn nhân loại, địa cư thiên, bàng sanh (tiracchaana), a tu la, ngạ quỉ (trừ ra loài Nijjhaamata.nhika) thuộc cả 4 sanh loại (yoni).
* * *
1) Loài thấp sanh và hóa sanh trong thời tái tục có được 8 bọn sắc nghiệp, bọn nhãn,... nói chung là 5 bọn thần kinh, bọn giới tính bọn ý vật. Ðó là tính tổng quát, lấy chuẩn mức tối đa (ukkatthanaya). Còn nếu lấy mức tối thiểu (omakanaya) thì đối với loài thấp sanh có thể thiếu 4 bọn sắc nghiệp: bọn nhãn, bọn nhĩ, bọn tỷ và bọn giới tính. loài đọa xứ hóa sanh trong thời tái tục có thể thiếu 3 bọn nghiệp: bọn nhãn, bọn nhĩ, bọn giới tính. Nhân loại hóa sanh (trong thời sơ kiếp) thiếu 1 bọn sắc nghiệp trong khi tái tục đó làbọn giới tính. Tất cả như thiên cõi Dục trong thời tái tục có đủ các sắc nghiệp.
2) Phạm thiên sắc giới hữu tưởng trong thời tái tục có được 4 bọn sắc nghiệp: bọn nhãn, bọn nhĩ, bọn ý vật bọn mạng quyền.
3) Phạm Thiên vô tưởng trong thời tái tục chỉ có được 1 bọn sắc nghiệp đó là bọn mạng quyền.
4) Loài thai sanh nói chung (gabbhaseyyaka) trong thời tái tục có tối đa (ukka.t.tha) 3 bọn sắc nghiệp: bọn thân, bọn giới tính, và bọn ý vật nói hạn chế hơn (onakanaya) thì sanh loại này trong thời tái tục có ít nhất là 2 bọn sắc nghiệp: bọn thân và bọn ý vật, còn bọn giới tính đôi khi có thể thiếu. Nãy giờ là giải về sắc nghiệp tái tục của các sinh loại.
* Ðối với loài thấp sanh và hóa sanh ở cõi Dục, tong thời bình nhật thì có được thêm bọn sắc nghiệp là bọn mạng quyền. Khi gom chung sắc nghiệp tái tục và sắc nghiệp bình nhật lại thì được 8 bọn.
* Phạm Thiên Sắc giới trong thời bình nhật cũng chỉ có 4 bọn sắc nghiệp thôi, không có thêm bọn nào nữa. Riêng về Phạm thiên vô tưởng thì vẫn một bọn sắc nghiệp như cũ.
* Loài thai sanh (nói chung) trong thời bình nhật sinh được 5 bọn sắc nghiệp nữa là bọn nhãn, bọn nhĩ, bọn tỷ, bọn thiệt, bọn mạng quyền. Trong 5 bọn đó đôi khi có thể thiếu 3 bọn sau đây: bọn nhãn, bọn nhĩ, bọn tỷ. Nói gọn lại, nếu kể tất cả bọn sắc nghiệp tái tục và bình nhật lại thì được 8 bọn. Trong đó có 4 bọn có thể bị thiếu trong một vài trường hợp đặc biệt.
Thời điểm xuất hiện các sắc thần kinh đối với loài thai sanh:
Trong bộ Paramatthavinicchaya (của Ngài Anuruddha) có ghi rằng:
Tato para.m pavattimhi
Va.d.dhamaanassa jantuno
Cakkhudasakaadayo ca
Cattaaro honti sambhavaa.
Mười một tuần lễ sau khi tái tục 4 bọn sắc nghiệp (tức 4 sắc thần kinh đầu) sẽ khởi lên cho chúng sanh một cách tương ứng [*] và cả 4 phải sinh cùng lượt không trước không sau nhau. Ðể khẳng định rõ điều này khi thuyết về 4 bọn sắc nghiệp còn lại (trừ bọn thân, bọn tính, mạng quyền, ý vật) Ðức Phật Ngài không có kể thứ lớp từng bọn theo cách uppattikkamanayahay còn gọi là desanaakamanaya tức nêu từng chi trước sau như khi thuyết Ngũ Uẩn, Tứ Ðế, mà Ngài lại gom chung một lần mà kể ra. Về vấn đề 4 bọn sắc nghiệp sanh khởi trong tuần lễ thứ 11 sau khi tái tục. Trong bộ Kathaavatthu nói rằng "Sesaani cattaari sattasattati rattimhi. jaayanti: 4 bọn sắc nghiệp còn lại sinh khởi trong đêm thứ 77 sau ngày tái tục".
Còn bọn sắc mạng quyền thì khởi sinh sau ngày tái tục 1 tuần lễ.
Riêng về loài thấp sanh và hoá sanh thì bọn mạng quyền sinh lên từ sát-na trụ (.thitik.) của tâm tái tục.

[*] Như với người muu bẩm sinh thì phải thiếu thần kinh nhãn
Pa.thama.m kalala.m hoti
Kalalaa hoti abbuda.m
Abbudaa jaayate pesi
Pesi nibbattate ghano
Ghanaa pasaakhaa jaayanti
Kesaa lomaa nakhaapi ca.
(Sagaathaavag. Yakkha Sa.myut. - Sa.my.-nikaaya)
Quãng thích:
- Trong tuần lễ đầu tiên sau khi tái tục, bào thai chỉ là một dịch chất trong suốt như dầu mè. Ðức Phật gọi dịch chất này là kalala.
- Vào tuần lễ thứ hai dịch chất kalala biến dạng thành một tí nưóc sền sệt (Chánh tạng gọi làabbuda)
- Vào tuần lễ thứ ba chất nước sẹät đó đổi sang dạng một cục thịt đỏ hói (Chánh tạng gọi là Pesi)
Vào tuần lễ thứ tư cục thịt đỏ ấy biến thành một khối săn chắc hơn, thay vì khi còn ở dạng pesi thì chỉ là một cục thịt mềm rệu. Dạng này được Ðức Phật gọi là Ghana, có hình dạng giống trứng gà.
- Vào tuần lễ thứ năm khối thịt săn chắc đó bắt đầu hình thành đầu mình tay chân. Từ tuần lễ thứ 12 đến tuần lễ thứ 42 các tóc, lông, móng dần dần mọc ra.
Trong các cõi hữu sắc hữu tưởng sát-na tâm đầu tiên trong một kiếp sống là tâm tái tục. Khi tâm tái tục diệt rồi thì tâm hữu phần đầu tiên sẽ khởi lên. Ngay sát-na của tâm hữu phần này, sắc tâm được tạo ra kể từ đó về sau, lúc nào sắc tâm cũng chỉ khởi lên ngay sát-na sanh của tâm, còn sát-na trụ và diệt thì yếu quá không đủ sức tạo sắc tâm. Bởi vì theo quy luật, tâm và sở hữu trong sát-na rất mạnh, còn ở 2 sát-na tiểu sau thì yếu hơn.
- Bọn sắc quí tiết đầu tiên luôn khởi lên vào sát-na trụ của tâm tái tục từ đó về sau nó khởi lên liên tục trong từng sát-na tiểu. Vì sắc quí tiết không phải do tâm trợ sanh nên dù tâm đang ở tình trạng nào: mạnh hay yếu cũng không ảnh hưởng gì đến chúng.
- Ðối với loài thấp sanh và hóa sanh khi vừa tái tục xong thì có thể tiêu thụ thực phẩm được liền nên bọn sắc vật thực của 2 loài này cũng sinh lên ngay lộ ý môn đầu tiên của kiếp sống. Và loại sắc này cũng không do tâm trợ sanh nên dù ở sát-na nào của tâm chúng cũng đều có thể sinh lên được cả.
Ðối với loài thai sanh thì bọn sắc vật thực khởi lên kể từ khi người mẹ ăn uống vào. Chất sinh tố trong thức ăn mà người mẹ dùng đó sẽ phân bố vào bầu thai để nuôi dưỡng nó. Nhưng điều nên nhớ là trong khi bầu thai còn trong dạng dịch chất (kalala) thì sinh tố từ bà mẹ không nuôi được nó. Kể từ tuần lễ thứ hai trở đi sinh tố trong các thức ăn mà bà mẹ ăn vào đó mới có thể nuôi dưỡng bầu thai. Kể từ lúc hiện khởi ấy trở về sau, vào bất cứ sát-na nào của tâm, sắc vật thực cũng khởi lên được. Trong sagaathaavagga (yakkhasa.myutta - Sa.myutta Nikaaya), bậc đạo sư bảo rằng:
Ya~ncassa bhu~njati maataa
Anna.m paana~nca bhojana.m
Tena so tattha yaapeti
Maatu kucchigato tiro.
"Món ăn thức uống mà bà mẹ dùng vào (sẽ giúp cho) thai bào nhờ đó mà hình thành cơ thể để lớn mạnh".
-ooOoo-
I-* Icceva.m patisandhimupaadaaya kammasamu.t.thaanaa. Dutiyacittamupaadaa ya cittasamu.t.thaanaa. .thitikaalamupaadaaya utusamu.t.thaanaa, ojaaphara.namupaa- daaya aahaarasamu.t.thaanaa. Ceti catusamu.t.thaanaruupakalaapasantati kaamaloke diipajaalaa uja nadiisoto viya ca yaavataaykamabbhocchinnaa pavattati.
Như đã nói, sắc nghiệp bắt đầu sinh ra từ sát-na Sanh (up.kh.) của tâm tái tục. Sắc tâm bắt đầu có mặt từ sát-na sanh của tâm hữu phần đầu tiên trong kiếp sống. Sắc quí tiết bắt đầu hiện khởi từ sát-na Trụ (.thi-kh.) của tâm tái tục sắc vật thực bắt đầu có mặt kể từ lúc các oja được tiếp viện và phân bố. Sự diễn biến tiếp nối liên tục của 4 loại sắc này trong cõi dục giống như một ngọn lữa hay như một dòng nước vậy.
II-* Mara.nakaale pana cuticittoparisattarasamacittassa .thitikaalamupaa- daaya kammajaruupaani na uppajjanti. Puretaramuppannaani ca kammajaruupaa -paani cuticittasamakaalameva pavattitvaa nirujjhanti. Tato para.m cittajaahaara- jaruupa~nca vocchijjati. Tato para.m utusamu.t.thaanaruupaaramparaa yaava mataka.levarasankhaaraa pavattanti.
Trong thời cận tử, từ sát-na trụ của tâm thứ 17 tính từ tâm tử kể ngược lại thì các sắc nghiệp không còn sinh thêm cái nào nữa, còn những sắc nghiệp đã sanh sẳn (trong sát-na sanh của tâm thứ 17 tính từ tâm tử kể ngược lại) thì cứ kéo dài đời sống của mình cho tới khi tâm tử khởi lên để cùng diệt mất một lượt với nó. Sau khi sắc nghiệp đã diệt mất thì sắc tâm và sắc vật thực cũng diệt luôn. Khi 3 loại sắc đó đã mất hết trong cơ thể chúng sanh thì sắc quí tiết vẫn còn tiếp tục sinh ra cho tới khi thân xác đã trở thành tử thi.
Quãng thích:
Sau đây là giải rộng về 2 cận tử Paali vừa nêu trên.
Ðiểm tâm yếu của bài kệ I muốn nói là sắc nghiệp bắt đầu sinh ra. Từ sát-na sanh của tâm tái tục rồi sau đó cứ vậy mà sinh diệt mãi cho đến hết kiếp sống chúng sanh. Trước giờ lâm chung, sắc nghiệp sanh lên một lần cuối cùng vào sát-na sanh của tâm thứ 17 tính từ tâm từ kể ngược lại những sắc nghiệp đó cứ đợi 17 sát-na tâm trôi qua cho hết thời hạn tồn tại của mình để rồi cùng diệt một lượt với tâm tử vì tuổi thọ của một sắc pháp dài bằng 17 sát-na tâm, đó là quy luật muôn đời không ai có thể sửa đổi cho khác đi được.
Câu Paali thứ hai muốn nói rằng ngoại trừ tâm viên tịch của vị La Hán, còn tâm tử của phàm nhân và Thánh hữu học đều có tạo sắc tâm. Như vậy lần sinh lên cuối cùng của sắc tâm được diễn ra ngay sát-na sanh, của tâm tử. Ðối với vị La hán thì sắc tâm sinh lên lần cuối cùng ở sát sát-na sanh của tâm thứ hai kể từ tâm tử tính ngược lại. Ðiều này có nghĩa là khi tâm đã diệt, người ta đã chết hẳn, sắc tâm vẫn còn tồn tại trong một khoảnh khắc đối với phàm nhân và thánh hữu học, khi họ đã chết rồi sắc tâm vẫn tiếp tục kéo dài thời gian tồn tại tương đương với 16 sát-na tâm. Còn vị La Hán sau khi viên tịch rồi, sắc tâm của vị ấy tiếp tục có mặt trong một khoảng thời gian tương đương với 15 sát-na tâm rồi diệt mất luôn. Nói theo chân đế thì là như vậy chớ nếu nói theo tục đế thì coi như tâm tử và sắc tâm lúc nào cũng cùng diệt một lượt bởi thời gian tương đương với 15, 16 sát-na tâm quả thật vô cùng ngắn ngủi, chưa bằng 1% của một vinaajii (một "sao" đơn vị đo thời gian cực ngắn, tương đương với 1% giây đồng hồ).
Nói về sắc vật thực, chúng sanh lên lần cuối cùng vào sát-na diệt của tâm tử. Nghĩa là khi tâm tử đã diệt, sắc vật thực tiếp tục tồn tạïi trong một thời gian tương đương 50 (năm mươi) sát-na tiểu rồi mới diệt,
Sở dĩ nói sắc quí tiết vẫn tếp tục tồn tại trong cơ thể chúng sanh sau khi họ đã chết là vì sắc quí tiết không bị ảnh hưởng gì tử tâm thức cả. Kể từ lúc cơ thể đã cứng lạnh rồi siinh trương rồi chỉ còn xương hay thậm chí tới lúc xương trở thành đất thành bụi, sắc quí tiết vẫn tiếp nối nhau sinh diệt mãi cho tới khi nào thế giới tiêu hoại thì thôi. Ðó là nói về sắc quí tiết trong thân xác của loài thấp sanh, thai sanh, (gab).
Riêng về sắc quí tiết của loài hóa sanh thì khi họ chết rồi nó cũng diệt luôn bởi thân xác của họ giống như ngọn lửa, còn sống thì còn thấy, chết rồi thì không có dư sót lại tí vật chất nào.
Từ kiếp sống này tới kiếp sống khác, sắc pháp cứ mãi khởi lên nơi chúng sanh, từ sát-na tái tục cho tới lúc chết như các Ngài đã nói:
Iccevam matasattaana.m
Punadeva bhavantare
Pa.tisandhimupaadaaya
Tathaaruupa.m pavattati
"Ðối với những người đã chết rồi, sang sanh hữu khác sắc pháp lại tiếp tục hiện khởi như cũ, kể từ lúc tái tục trở về sau, cứ vậy mà diễn biến".
-ooOoo-
1) Sắc pháp được chia chẻ mấy cách? Kể ra và hãy cho biết ý nghĩa của mỗi cách.
2) Có bao nhiêu sắc pháp? Hãy nêu tên gọi từng cái theo thứ tự.
3) 28 sắc pháp kể gọn có bao nhiêu kể chi tiết có bao nhiêu?
4) Hãy lấy ra những sắc chân đế thật sự và hãy giải thích từng loại sắc sau đây sabhaavasaaya, asabhaavaruupa, salakkha.naruupa, alakkha.naruupa, nipphannaruupa, anipphannaruupa, ruuparuupa, aruuparuupa, sammasanaruupa, asammasanaruupa.
5) Hãy giải thích sắc Nahaabhuuta và Upaadaaya là thế nào. Hãy kể cho đủ những chỗ thiếu: Ðất, nước, lửa, gió, sắc thần kinh nhãn, sắc cảnh sắc, sắc cảnh xúc, sắc nữ giới tính, mạng quyền, thân biểu tri, khinh, sinh, diệt.
6) Hãy cho biết sự phân bố của 28 sắc pháp trên thân thể chúng sanh.
7) Hãy cho biết thực tính chân đế của từng sắc trong tứ đại. Và có mấy thứ nước, lửa, gió?
Nước có 2 loại:
a) Nước ở dạng quến tụ (aabandhanalakkha.na) được u.nhatejo tác động sẽ chảy ra (paggahara.nalakkhana) như sắt, đồng chì, kẽm... Bản tướng thủy đại của những vật chất ấy chỉ cần được nhiệt hỏa tác động là hiển hiện. Ðó là loại nước thứ nhất.
b) Bản tướng thủy đại trong dạng chất lõng khi được Siitatejo (hàn hỏa) tác động thì sẽ gom lại và khắn vào nhau, như nước ở 0o c (không độ C) sẽ trở thànhaabandhanalakkha.na ngay .
8) Hãy nêu lời giải tự của các sắc thần kinh nhãn... nói chung là 5 thần kinh.
9) Tại sao các màu sai biệt được gọi là sắc cảnh sắc, các mùi sai biệt được gọi là sắc cảnh khí?
10) Hãy dẫn chứng câu giải tự của các sắc ý vật, mạng quyền, vật thực, giao giới.
11) Nếu chia cho sâu sắc, 2 biểu tri có tới mấy loại? - Hãy giải nghĩa và dịch từng câu giải tự sau đây:

- Kaayena vi~n~natti: kaayavi~n~natti.
- Viseso aakaaso: vikaaso
- Lahuno bhaavo: lahutaa
- Ruupassa lahutaa: ruupalahutaa.
- Lakkhiiyanti vinicchiiyanti dhammaa ime sankhaatatii etenaati lakkhana.m.
12) Nếu gọi tâm theo thực tính, sắc pháp có được mấy tên gọi? Hãy giải nghĩa từng tên gọi ấy.
13) Ajjhattikaruupa, vatthuruupa, dvaararuupa, indriyaruupa, o.laarikaruupa, trong người của bạn (học sinh) có được mấy, kể ra chi tiết.
14) Hãy chia sắc pháp vào từng cặp sau đây: sắc thô, sắc tế, sắc do thủ, sắc phi do thủ, bất ly, khả ly (vinibbhoga).
15) hãy phân chia 7 sắc cảnh giới theo uppattidvaara và kammadvaara kèm theo lời giải thích.
16) Gocaraggaahakaruupa là gì? Hãy giải nghĩa và phân chia các Gocaraggaahakaruupatheo asampatagacar và sampattagoccaraggaahakaruupa kèm theo lời giải thích.
17) 5 sắc thần kinh, 7 sắc cảnh giới được gọi là sắc hữu đối xúc (sappattig), tại sao thế? Hãy giải thích. Thế nào là sắc quyền, có mấy sắc quyền, hãy giải thích và nêu lên từng sắc một.
18) Hãy giải thích thế nào là sắc bất ly và khả ly theo ý của bạn, dĩ nhiên phải làm sao cho có luận cứ.
19) Hãy kể rõ sắc nào.
a- Là sắc quyền mà không là sắc tế
b- Là sắc tế mà không là sắc quyền
c- Là sắc quyền mà cũng là sắc tế
d- Không là sắc quyền cũng không là sắc tế.
e- Là sắc do thủ (upaadinnaruupa) nhưng không là sắc khả ly (vinib)
f- Là sắc khả ly nhưng không là sắc do thủ.
g- Là sắc khả ly mà cũng là sắc do thủ
h- Không là sắc do thủ cũng không là sắc khả ly.
20) Hãy cho biết có mấy nghiệp, tâm, quí tiết và vật thực có thể tạo sắc pháp và không thể tạo sắc pháp (nghiệp ở đây tính trên tâm). Hãy kể chi tiết.
21) Có những sắc pháp sanh từ Cetasika đã diệt, có những sắc sanh từ cetasika mới sinh, tại sao Ðức Phật không gọi những sắc đó là cetasikaruupa? Hãy giải thích.
22) Có mấy thứ oja giúp sắc vật thực sinh khởi? Và loại oja nào trực tiếp trợ sanh sắc thực, oja nào chỉ ở vai trò trưởng dưỡng, tác động gián tiếp cho sinh khởi.
23) Hãy dịch câu kệ Paali sau đây

A.t.thaarada pannarasa
Terasa dvaadasaati ca
Kammacittotukaahaara
Jaani honti yathaakkama.m
Và hãy phân tích, 18 sắc nghiệp theo ajjhattikaruupa, vatthuruupa, dvaararuupa, indriyaruupa, o.laarikaruupa.
24) Hãy chia các sắc sau đây theo 4 samu.t.thaana (nhân sanh), 16 sắc tế, ekasamu.t.thaanikaruupa (sắc có 1 nhân sanh), dvisamu.t.thaanikaruupa (sắc có 2 nhân sanh), tisamu.t.thaanikaruupa (sắc có 3 nhân sanh), catusamu.t.thaanikaruupa (sắc có 4 nhân sanh),
25) Các Ngài đã nói rằng 4 sắc tướng không có nhân sanh nào, vậy tại sao có chỗ các Ngài lại bảo là 4 sắc tướng luôn có mặt theo các sắc "CHỦ NĂNG"? Hãy giải thích cho đúng ý các Ngài.
26) 4 sắc quí tiết (sinh ra) trong thân là gì? Hãy giải thích từng cái.
27) Hãy kể rõ tâm nào được 7 loại sắc tâm, kể từng chi tiết, tâm nào tạo được loại nào.
28) Hãy cho biết (từng) sắc tâm nào sanh ra từ các tâm sau đây: 8 tham, 2 sân, 2 si, khai ý, sinh tiếu, 8 đại thiện, 5 thiện sắc giới, (trừ 2 tâm thông), 5 quả sắc giới, 2 tâm thông, 4 tố vô sắc, 4 thánh quả.
29) Hãy kể 13 tâm hỷ thọ làm việc cười cho 3 người.
30) Kalaapa nghĩa là gì, có mấy ruupakalaapa? Hãy dẫn chứng tài liệu.
31) Tại sao Ngài Anuruddha bảo rằng các sắc trong một bọn phải tương đồng nhau trên 3 điểm sahavutti, không được nhiều hơn mà cũng không được kém hơn?
32) Tại sao sắc giao giới và 4 sắc tướng không có chi pháp hẳn hoi dứt khoát? Hãy giải thích và dẫn chứng tài liệu?
33) Hãy nêu rõ 9 bọn sắc nghiệp trên ý nghĩa và chi pháp.
34) Trong mỗi người có tối đa bao nhiêu sắc nghiệp? 2 sắc tính có cùng sanh trong 1 chúng sinh không? Hãy giải thích. Hãy phân xác thân thành 3 phần và kể từng sắc nghiệp phân bố trên đó.
35) Hãy kể tên 8 bọn sắc tâm theo thứ tự và hãy giải thích tâm thế nào là bọn Thinh với bọn Thinh kỳ dị.
36) Từ cổ xuống rún có được bao nhiêu sắc tâm, kể ra, và 8 bọn sắc tâm ấy là nhóm sắc nào, bao nhiêu, kể ra.
37) 13 sắc quí tiết nếu đem kể thành bọn thì được mấy bọn? kể ra. Ðồng thời hãy chia rõ bọn quí tiết nào ở nội thân chúng sanh, loại nào ngoài thân chúng sanh?
38) Hãy phân tích sự khác nhau giữa tiếng la lối và tiếng nhạc cụ. Hãy phân biệt thế nào là bất ly do tâm sanh và bất ly do quí tiết sanh?
39) 2 bọn sắc vật thực có sanh trong cơ thể chúng sanh được không? Hãy giải thích theo cái hiểu của bạn và sao cho đúng với tài liệu kinh sách.
40) Hãy dịch câu kệ Paali sau đây:

Viisati kaamesu
Hon ti tevisa ruupisu
Sattarasevasa~n~niina.m
Aruupe natthi ki~ncipi.
41) Các Ngài nói rằng ở cõi Phạm Thiên Sắc Giới hữu tưởng chỉ có 4 bọn sắc nghiệp là bọn nhãn, bọn nhĩ, bọn ý vật và bọn mạng quyền. Vậy trên mặt vị Phạm Thiên ấy ta chỉ thấy có mắt và tai thôi sao? và tại sao trên đó vẫn còn có nhãn, nhĩ.
42) Có bao nhiêu sắc ở cõi Vô Tưởng? Trong người bạn có mấy sắc? Kể ra? Nếu kể rộng thì có mấy sắc được nghiệp trợ sanh? Kể ra? Và hãy cho biết nếu kể rộng thì ở cõi Dục có bao nhiêu sắc?
43) Hãy dịch câu Paali sau đây:
Saddo vikaaro jarataa
Marana~ncapapattiya.m
Na labbhanti pavattatu
Na ki~ncipi na labbhati.
44) Sắc pháp trong thời tái tục là những sắc nào kể ra. Hãy cho biết những loại sắc nghiệp của loài thấp sanh và thai sanh trong thời tái tục. Ðồng thời kể ra luôn sắc nghiệp tái tục của Phạm Thiên Sắc Giới hữu tưởng.
45) Ðối với loài thấp sanh và thai sanh có thể thiếu những bọn sắc nghiệp nào? Hãy cho biết mắt, tai, mũi, lưỡi, mạng quyền xuất hiện nơi cơ thể bạn kể từ thời điểm nào?
46) Có mấy sinh loại sau khi tái tục xong liền trưởng thành (có cơ thể hoàn chỉnh) lập tức? Hãy nói rõ từng giai đoạn phát triển của mỗi bộ phận cơ thể nơi bạn từ lúc tái tục cho tới lúc thật sự hoàn chỉnh.
47) Hãy nói rõ lần sinh ra đầu tiên và cuối cùng của 4 loại sắc (vào sát-na nào có ngoại lệ gì với ai ...)
48) 4 loại sắc nơi cơ thể bạn sẽ diệt vào thời điểm nào, hãy nói chi tiết các Ngài Atthakathaacariya (Chú Giải Sư) và Tikaacariya (Phụ Giải Sư) đều bảo rằng "Nhân loại có thể sống 7 ngày bằng 1 bữa cơm, ở thiên giới thì một bữa ăn có thể nuôi sống Chư Thiên trong 1 - 2 tháng", còn Ngài Anuruddha thì lại bảo rằng: Nhân loại có thể không ăn trong 7 - 10 tháng mà vẫn sống. Muốn biết Ngài chỉ cho hạng người nào, và khi như vậy thì người ấy sống bằng gì?
49) Hãy minh giải, quãng thích 2 đoạn Paali dưới đây:

a- Mara.nakaale pana cuticittoparisattaramacittassa .thitikaalamupaadaaya kammajaruupaani me uppajjanti puretaramuppannaani ca kammajaruupaani cuticittasamakaalameva pavattitvaa nirujjhanti.
b- Tato para.m citajaahaarajaruupa~nca vocchijjati.
50) Hãy dịch câu kệ sau đây và hãy cho biết (cùng với lời giải thích ) là câu kệ này có áp dụng cho cả 31 cõi được không?

Icceva.m matasattaana.m
Punadeva bhavantare
Patiïsandhimupaadaaya
Tathaaruupa.m pavattati.

-
-ooOoo-
Ðầu trang 01 | 0203 |04Mục lục

TẢN MẠN TÂM TƯ